NÂNG NGỰC SỬ DỤNG CHẤT ĐỘN ACID HYALURONIC (Phần I)
GIỚI THIỆU
Nhu cầu phẫu thuật nâng ngực đang gia tăng đều đặn qua các thập kỷ. Trong năm 2008, hơn 350000 ca phẫu thuật nâng ngực đã được thực hiện ở Mỹ làm cho phẫu thuật nâng ngực trở nên phổ biến nhất trong phẫu thuật thẩm mỹ. Từ năm 1999, số ca cấy ghép ngực đã tăng hơn 300%. Trong cùng thời điểm đó, số lượng các ca thẩm mỹ không phẫu thuật đã gia tăng hơn 700%, phản ánh xu hướng ngày càng tăng đối với can thiệp xâm lấn tối thiểu hoặc tiêm đối với nâng thẩm mỹ. Những phụ nữ trải qua phẫu thuật nâng ngực chỉ chiếm một phần trăm nhỏ trong số những người không hài lòng với hình dáng và kích thước ngực. Mặc dù có nhiều yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến phụ nữ có nhu cầu nâng ngực nhưng họ thường nói là không hài lòng với bộ ngực hơn là diện mạo, đó là động lực để tiến hành phẫu thuật. Những người muốn được nâng ngực nhưng không muốn phải trải qua phẫu thuật thường là do sợ gây mê, các biến chứng, tác dụng phụ sau phẫu thuật, sẹo và kết quả thẩm mỹ không mong muốn.
Khái niệm nâng ngực dùng chất độn (filler) tiêm đang đang được ưa chuộng. Phương pháp này có thể đem lại kết quả hài lòng mà không cần thiết phải gây mê toàn thân, cấy ghép bộ phận giả hoặc phẫu thuật rạch. Chất độn lý tưởng cho nâng ngực sẽ tương thích sinh học, trơ, kéo dài, không tốn kém, mềm, không bị di chuyển và không ảnh hưởng tới tính nhạy cảm của ngực. Mặc dù chuyển mỡ tự thân đã được sử dụng rộng rãi cho nâng ngực nhưng nó không được các bác sĩ phẫu thuật tạo hình thực hiện do nhiều lý do khác nhau, bao gồm khả năng nhận ra sự khác biệt giữa sự vôi hóa lành tính và ác tính trên nhũ ảnh. Việc sử dụng các acid hyaluronic như acid hyaluronic được ổn định không phải của động vật (NASHA ™,Q-Med, Uppsala, Thụy Điển) để nâng mô mềm ở vùng mặt đã được nghiên cứu rộng rãi và cho thấy các kết quả an toàn cao. Sự phát triển gần đây của gel acid hyaluronic hạt lớn để định hình đường nét cơ thể là yếu tố khôi phục lại kích thước Macrolane™ (VRF) (NASHA™ gel; Q-Med AB, Uppsala, Sweden) cho phép nâng ngực được thực hiện dưới sự gây tê tại chỗ thông qua một vết rạch. Bệnh nhân có thể trở về nhà ngay sau đó và hoạt động bình thường với sự hạn chế tối thiểu. Do acid hyaluronic liên kết chéo là một chất độn không bền vững nên các kết quả sau nâng với Macrolane có tính tạm thời, kéo dài khoảng 18 tháng. Nâng với mức độ vừa phải đạt được với Macrolane thường sử dụng 100-150ml/ ngực, đem lại diện mạo trông tự nhiên (hình 1). Do vậy, phương pháp này không nên được coi là phương pháp thay thế cho phẫu thuật nâng ngực, nhưng là sự thay thế cho những bệnh nhân không muốn phẫu thuật và hiểu được sự hạn chế của các chất độn và tính tạm thời của các kết quả sử dụng acid hyaluronic. Hiện nay, Macrolane là sản phẩm acid hyaluronic được phê duyệt ở châu Âu để nâng các mô mềm có kích thước lớn của cơ thể và ngực.
Hình 1. Nâng ngực bằng chất độn, (a-c) trước, (d-f) sau khi tiêm 120ml Macrolane VRF30 ở mỗi khoang dưới ngực
CÁC LOẠI CHẤT ĐỘN
Vào đầu thế kỷ 19, các vật liệu và các chất đã được tiêm vào ngực để nâng ngực thẩm mỹ. Các chất như dầu khoáng và paraffin được tiêm vào ngực gây ra các hậu quả tai hại như nhiễm trùng, u và paraffiomas. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, tiêm silicon bất hợp pháp bắt đầu. Đầu tiên, silicon công nghiệp (Dow Corning 200 lỏng) được tiêm vào ngực của gái mại dâm và xuất hiện các biến chứng nghiêm trọng do sự di chuyển của chất này và xuất hiện tình trạng viêm. Sư phát triển vào năm 1962 của chất lỏng y tế Dow Corning 360 – silicon với ít tạp chất hơn, đã nhìn thấy sự hồi sinh của việc tiêm bất hợp pháp cho nâng mô mềm và ngực. Gần đây, silicon y tế (Silikon-1000; Richard-James Inc., Peabody, MA, Hoa Kỳ) đã được sử dụng như một chất độn cho kết quả lâu dài nhưng sự đồng thuận chung cho rằng chất này nên được tiêm nông và dạng giọt siêu nhỏ để giảm tỷ lệ các tác dụng phụ và các biến chứng. Nâng ngực sử dụng lượng lớn silicon tiêm sâu là kém an toàn và nên tránh. Các chất độn bền vững khác đã được sử dụng để nâng ngực gồm có polyacrylamide hydrogel và polyalkylimide. Polyalkylimide (Bio-Alcamid ™, Polymekon, Italy) gồm 4% polyme alkyl-imide và 96% nước nonpyrogenic và đã được sử dụng cho nâng mô mềm lâu dài cho vùng mặt và cho tái cấu trúc sau phẫu thuật ngực và dị dạng thành ngực. Việc sử dụng nó cho nâng ngực nhằm mục đích thẩm mỹ không được chứng minh qua các tài liệu. Mặc dù gel polyacrylamide (Aquamid®; Contura international, Đan Mạch) đã được sử dụng với một số thành công cho nâng ngực với các báo cáo có phản ứng mô tối thiểu nhưng nhiều báo cáo gần đây về các biến chứng nghiêm trọng cho thấy rằng nó không được chấp nhận là chất độn khả thi để nâng ngực bằng phương pháp tiêm an toàn. Mặt khác, mỡ tự thân là chất độn lý tưởng trong nhiều trường hợp. Nó không có tính kháng nguyên sẵn có, không có nguy cơ gây độc hoặc truyền nhiễm bệnh. Những bất lợi liên quan đến việc thu thập lượng mỡ, sự biến đổi của các tế bào được cấy ghép và yêu cầu sử dụng thuốc an thần tiêm tĩnh mạch hoặc gây mê toàn thân, đặc biệt tùy vị trí nhận đòi hỏi tiêm trong bắp hoặc dưới bắp.
Acid hyaluronic ổn định hoặc liên kết chéo là các polysaccharide tìm thấy từ tự nhiên, có hồ sơ an toàn tuyệt vời để cải thiện các đường nhăn và tạo đường nét cho khuôn mặt. Kể từ khi giới thiệu vào năm 2002, Macrolane, chất độn gel acid hyaluronic hạt lớn đã được sử dụng thành công để phục hồi kích thước ngực vừa phải mà không để lại các tác dụng phụ nghiêm trọng. Macrolane được trình bày dưới 2 dạng là VRF30 và VRF20. VRF30 nhớt hơn và phù hợp với vị trí sâu để khôi phục lại kích thước đáng kể. VRF20 loãng hơn và thích hợp hơn nếu độ che phủ mô ít hoặc nếu các khiếm khuyết ít hơn ở các mô nông yêu cầu hiệu chỉnh. Macrolane VRF30 hầu như dành riêng cho nâng ngực. Không giống với mỡ, acid hyaluronic không yêu cầu sự cung cấp máu mới, cho phép gel được đưa vào như một khối được giới hạn trong khoang ngực sau khi gây tê tại chỗ.
Bảng 1. Tóm tắt các chất độn tiêm được dùng để nâng ngực
Chất độn | Ưu điểm | Nhược điểm |
Mỡ tự thân | Phong phú, có sẵn
Không có nguy cơ độc, không có tính kháng nguyên Có khả năng duy trì lâu |
Sự dung nạp không biết trước được
Cần phải thu thập từ vị trí cho mẫu Các tác dụng phụ như u và hoại tử mỡ |
Polydimethylsiloxane (silicones), ví dụ Sillikon-1,000® | Duy trì lâu
Dễ tiêm |
Các tác dụng phụ nghiêm trọng đã được báo cáo
Tính an toàn lâu dài không chắc chắn |
Polyalkylimide, ví dụ Bio-Alcamid™ | Duy trì lâu
Dễ tiêm |
Các biến chứng nghiêm trọng trên mặt đã được báo cáo |
Polyacrylamide hydrogel, ví dụ Aquamid® | Duy trì lâu
Dễ tiêm |
Tính an toàn lâu dài không chắc chắn
Các biến chứng nghiêm trọng đã được báo cáo |
Hyaluronic acid ổn định, ví dụ Macrolane™ VRF | Dễ tiêm
Hợp chất tìm thấy từ tự nhiên Đã được chứng minh là an toàn Hấp thu chậm |
Chất độn tạm thời |
NÂNG NGỰC SỬ DỤNG ACID HYALURONIC
Giải phẫu
Ngực của phụ nữ trưởng thành gồm có da và mỡ dưới da phủ lên các lớp mạng nông, lớp mạng phân chia để bao phủ mô mỡ sâu hơn, mô tuyến và chất nền. Ngực được nâng và hỗ trợ bởi các dải mô sợi và các dây chằng giúp xác định vị trí của nó và định hình trên thành ngực. Ngực nằm ở vị trí từ xương sườn thứ hai hoặc trên xương sườn thứ ba đến dưới xương sườn thứ sáu và từ cạnh xương ức đến đường giữa nách (hình 2). Các thay đổi về hình dạng và kích thước tùy thuộc vào tuổi tác, giới tính, chỉ số khối cơ thể, di truyền và chủng tộc. Để duy trì hình dáng tự nhiên khi nâng ngực với acid hyaluronic, phần lớn các chất độn nên được đưa vào phần nửa dưới của ngực, càng gần nếp gấp dưới tuyến vú càng tốt. Nếp gấp thường nằm trên xương sườn thứ năm với điểm thấp nhất ở khoang liên sườn thứ sáu. Khoảng cách từ mép dưới của quầng vú đến nếp gấp dưới tuyến vú khoảng từ 5-9cm. Nếu nếp gấp dưới tuyến vú kém hình thành hoặc khoảng cách giữa nếp gấp và quầng vú ngắn, nâng ngực dùng chất độn nên tiến hành cẩn thận. Hơn nữa, điều này có thể tạo ra ngực không tự nhiên hoặc xuất hiện sự nặng nề ở đỉnh cùng với không thấy rõ nếp gấp dưới tuyến vú. Trong những trường hợp này, 70-80ml đường tiêm hiệu quả để nâng ngực vừa phải. Các lớp mạng nông phân chia để hình thành màng bao cho ngực. Giữa hai lớp có các dây mô liên kết mảnh gọi là dây chằng Cooper. Chúng đi qua nhu mô của ngực để tạo hình khuôn ngực, ngăn chặn sự lỏng lẻo và sa xuống ở ngực của người trẻ. Dây chằng Cooper căng hoặc yếu đi trong thời kỳ mang thai, cho con bú hoặc trong giai đoạn lão hóa làm ngực bị chảy xệ và xẹp xuống. Mục đích của nâng ngực với acid hyaluronic là để đưa chất độn vào khoang dưới ngực, sử dụng ống thông dò đưa vào qua một vết rạch nhỏ. Tiêm chất độ vào sâu khoang dưới vú giúp ngực được nhô ra trước mà vẫn giữ được cảm giác mô ngực bình thường bên ngoài.
Hình 2. Giải phẫu ngực và vị trí của ngực trên thành ngực