CHĂM SÓC SAU QUY TRÌNH THAY DA HÓA HỌC( Phần I)
CHĂM SÓC CHUNG ÁP DỤNG VỚI TẤT CẢ CÁC QUY TRÌNH
Không tự ý kéo, lột gỡ các vảy nhỏ bong tróc
Hành động này thường dễ dẫn đến nhiễm trùng, đỏ da kéo dài và thậm chí để lại sẹo. Bệnh nhân nên hạn chế việc tiếp xúc lên bề mặt da sau quy trình để không làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.
Chống nắng
Bất kì loại thay da nào, thậm chí rất nông nhưng đều có thể làm giảm độ dày của lớp sừng bảo vệ da chống lại các tác động của bức xạ: sự bảo vệ nhiễu xạ và phản xạ thường được tạo ra ở những lớp ngoài cùng không còn giá trị nữa và tổng lượng các tia bức xạ xâm nhập vào da sẽ da tăng. Bức xạ này có thể gây ra tổn thương quang hóa ở các tế bào mà thường được bảo vệ bởi độ dày của da. Các tế bào melanin được kích thích mạnh hơn và có khả năng làm gia tăng sự thay đổi sắc tố. Khi đó các chất thay da cho phép các tia bức xạ thâm xâm dễ dàng hơn vào lớp đáy của biểu bì, nơi các tế bào keratin đảm bảo sự tái tạo lại biểu mô và các tế bào melanin có thể gây ra sự tăng sắc tố. Sự chiếu xạ nhiều hơn làm gia tăng nguy cơ những tế bào này bị biến đổi gen. Tất cả các chất thay da đưa lên da làm tăng nguy cơ tổn thương quang hóa, do đó cần thiết sử dụng các loại kem chống nắng. Kem chống nắng phổ rộng đem lại sự bảo vệ tốt hơn. Thay da càng sâu càng cần phải chống nắng. Sau khi thay da trung bình hoặc thay da sâu, cần sử dụng kem chống nắng có chỉ số 25-50 (UVA+UVB+ tác nhân gây cảm ứng HSP) khoảng 6-12 tuần (tùy thuộc vào độ sâu thay da) ngay cả khi bệnh nhân không ra ngoài và thậm chí vào những ngày không có nắng.
Tránh tình trạng mất nước của da sau quy trình
Tình trạng da khô và bong tróc tạo ra cảm giác khó chịu khiến bệnh nhân tự ý dùng tay kéo và lột gỡ các vảy nhỏ và do đó gia tăng nguy cơ xuất hiện những biến chứng như nhiễm trùng thứ cấp, viêm da và hình thành sẹo. Sử dụng vaseline giúp cải thiện lập tức các cảm giác ngứa và căng da sau quy trình thay da trung bình hoặc thay da sâu. Vaseline vô trùng là một thuốc mỡ hiệu quả có thể được sử dụng tại những vùng điều trị trong vài ngày đầu sau quy trình thay da trung bình hoặc sau khi da đã bong tróc hoàn toàn (ngày thứ 9 của quy trình thay da phenol). Chỉ cần bôi một lớp mỏng để tránh cảm giác ngứa do sự khô ráp của các tế bào sừng bề mặt. Vaseline tạo ra một lớp màng không thấm nước trên bề mặt da giúp ngăn ngừa tình trạng bay hơi của nước ở lớp biểu bì. Lượng nước này được tích tụ ngay bên dưới lớp vaseline và cung cấp tức thời độ ẩm tự nhiên, làm giảm ngay cảm giác ngứa do sự khô ráp của lớp tế bào sừng.
Chế độ dinh dưỡng hợp lý
Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân trong thời gian hồi phục là một yếu tố quan trọng để đạt được hiệu quả điều trị tối đa. Để tất cả các giai đoạn hồi phục được diễn ra một cách chính xác nhất cần phải đảm bảo sự cân bằng các dưỡng chất và vi dưỡng chất. Một chế độ cân bằng dinh dưỡng nghèo nàn sẽ tác động nhiều đến quá trình hồi phục sau các quy trình thay da sâu hơn là thay da nông bề mặt đối với người lớn tuổi. Nhiều protein được tổng hợp trong suốt quá trình hồi phục sau quy trình thay da trong biểu bì, cần có nhiều acid amin để hình thành mạng lưới tạm thời cũng như để tổng hợp các collagen mới. Ở những bệnh nhân bị sụt cân đáng kể ngoài ý muốn thường không có đủ lượng protein dự trữ cần thiết cho quá trình tái tạo da diễn ra hiệu quả. Thay da cũng tạo ra stress, gây ra trạng thái tăng dị hóa với mức độ nhiều hay ít còn tùy thuộc vào độ sâu xâm lấn. Những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường phụ thuộc insullin hay những bệnh nhân vừa trải qua phẫu thuật hoặc chấn thương nặng, bệnh nhân thiếu gan, thận hoặc bệnh nhân viêm mạn tính không phải là các đối tượng thích hợp đối với liệu pháp thay da đến trung bì do nhu cầu protein của những người này gia tăng mạnh. Nhu cầu protein trung bình mỗi ngày cho cơ thể là 1,5 g/kg, các acid amin thiết yếu nhất gồm có arginine và glutamine. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng minh rằng các chế phẩm bổ sung giúp cải thiện quá trình hồi phục vết thương. Arginine là một tiền chất của proline và collagen, liều được khuyến cáo là khoảng 15-25 g/ngày. Nó hoạt động như một chất thích kích cục bộ của các tế bào lympho và chất kích thích sản xuất hormone tăng trưởng ở người (HGH) và yếu tố tăng trưởng giống insullin (IGF-I). Glutamine cũng kích thích sản xuất HGH đồng thời có khả năng chống oxy hóa và là nguồn năng lượng cho các nguyên bào sợi, các tế bào sừng, các tế bào lympho cũng như các đại thực bào. Liều tiêu thụ khuyến cáo mỗi ngày là 10-30 g.
Các carbohydrate và các acid béo cũng rất cần thiết cho sự tái tạo làn da một cách nhanh chóng và hiệu quả. Mạng lưới ngoại bào được hình thành từ các glycosaminoglycan và các proteoglycan, đây là các polysaccharide liên kết với protein. Các acid béo omega-6 cần thiết cho sự hình thành màng tế bào. Bổ sung acid linoleic và linolenic có thể được chỉ định khi bệnh nhân có các vấn đề liên quan đến máu.
Nhiều nguyên tố vi lượng có vai trò cần thiết để các enzym thực thiện đúng chức năng của chúng: đồng cần cho sự hình thành mạng lưới collagen và hoạt động chống oxy hóa của enzym superoxide dimutase, sắt cần cho sự tổng hợp collagen, kẽm là một đồng yếu tố (cofactor) cho các enzym DNA và RNA polymerase, đóng vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp protein cũng như kích thích phân chia tế bào.
Các vitamin cũng giữ vai trò trong tiến trình hồi phục của da. Vitamin A tham gia vào quá trình hình thành mạch và biệt hóa tế bào sừng, kích thích tổng hợp collagen, đồng thời tăng cường sự bám dính gian bào và hệ miễn dịch của da. Vitamin E có thể được sử dụng như một chất chống oxy hóa thân dầu. Vitamin C cần thiết cho sự tổng hợp collagen cũng như sự ổn định của các chuỗi xoắn ba collagen, có thể bố sung trước và sau quy trình thay da với liều 500-1000 mg/ngày.
CHĂM SÓC ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI TỪNG LOẠI TÁC NHÂN THAY DA
AHA
Đối với quy trình thay da dùng AHA, nếu được thực hiện đúng cách thì sau điều trị bệnh nhân không cần phải dùng thuốc cho dù thay da ở nồng độ acid hay pH nào. Nhìn chung, sau quy trình, điều cần thiết nhất là phải dưỡng ẩm tốt và chống nắng hiệu quả trong vòng 2 tuần. Các quy trình thay da dùng AHA làm suy yếu chức năng hàng rào bảo vệ của lớp sừng, do đó làm gia tăng tính thấm, tạo điều điện cho các thành phần hoạt chất dễ dàng thâm nhập vào lớp biểu bì khi các sản phẩm được đưa lên da ngay sau và giữa các quy trình. Những loại sản phẩm sử dụng tùy thuộc vào vấn đề được điều trị. Ví dụ, đối với điều trị mụn, sử dụng một lớp kem trị mụn ngay sau khi đã trung hòa dung dịch AHA và để yên trên da trong khoảng 30 phút, sau đó bệnh nhân có thể sử dụng cùng loại kem này 2 lần/ngày. Áp dụng chăm sóc tương tự như trên đối với trường hợp nám da, lão hóa hoặc chảy xệ…Sau quy trình thay da dùng AHA, chế đôh chăm sóc hàng ngày của bệnh nhân đóng một vai trò thiết yếu trong việc xác định mức độ hiệu quả đạt được. Phương pháp mesotherapy có thể được kết hợp với quy trình thay da dùng AHA theo nhiều cách khác nhau, có thể tiêm hỗn hợp dùng trong mesotherapy trước khi thay da hay ngay sau bước trung hòa AHA và trước khi sử dụng các sản phẩm chăm sóc điều trị, hoặc có thể kết hợp điều trị luân phiên giữa mỗi tuần khác nhau. Nếu quy trình thay da AHA được thực hiện đúng cách, thông thường không cần thời gian hồi phục, tuy nhiên vẫn có những biến chứng không mong muốn có thể xảy ra.
Resorcinol
Resorcinol ở dạng bột nhão thường được sử dụng theo một cách cụ thể: 3 lần/ liệu trình, 1 lần/ ngày trong 3 ngày liên tiếp. Trong suốt tuần đầu tiên, không được dưỡng ẩm cho da bởi vì giai đoạn này da phải khô hoàn toàn để quy trình thay da đạt được hiệu quả tốt, đồng thời bệnh nhân tuyệt đối không được kéo hay lột gỡ các mảnh da đang bong tróc. Chỉ có bác sỹ mới có thể cắt bỏ các mảnh da bong ra bằng kéo vô trùng. Các sản phẩm dùng cho da đồi mồi, da mụn, da lão hóa hoặc chảy xệ…chỉ nên được sử dụng sau khi các vảy da đã bong tróc hoàn toàn. Bên cạnh đó, việc chống nắng hiệu quả với các loại kem chống nắng hữu hiệu (UVA + UVB + tác nhân gây cảm ứng HSP) là vô cùng quan trọng trong khoảng 6 tuần sau quy trình.
TCA-SAS (acid tricloroacetic trong dung dịch nước đơn giản)
Bước chăm sóc da sau quy trình thay da với TCA-SAS đòi hỏi sự lưu ý đặc biệt, thậm chí cả khi quy trình được thực hiện đúng cách, các biến đổi sắc tố là biến chứng phổ biến nhất và thường lành tính. Nếu việc phòng ngừa trước quy trình không tỏ ra hiệu quả hoặc trong trường hợp một số vùng thay da quá sâu, hiện tượng tăng sắc tố sau viêm (PIH) thường xuất hiện trong vòng 1 tuần sau thay da ở dạng các mảng sậm màu hoặc ban đỏ dai dẳng, sau đó sẽ trở thành các vùng tăng sắc tố dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. Không nên nhầm lẫn giữa những biến đổi sắc tố này với sự sậm màu của nám biểu bì xuất hiện vào ngày hôm sau quy trình. Tình trạng tăng sắc tố sau viêm xuất hiện do sự mất nước ở các vùng ưa nước giữa các túi melanin, làm cho mật độ melanin trở nên dày đặc hơn khiến cho làn da bị sậm hơn. Tình trạng này mang tính tạm thời, chỉ là một biểu hiện bình thường và sẽ mờ đi sau một tuần.
Không nên tác động lên các mảnh da đang bong tróc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thao tác tự ý kéo hoặc lột gở các mảnh da này có thể dẫn đến tình trạng không đồng đều tông màu da, nhiễm trùng, tăng sắc tố, hình thành sẹo hoặc mất sắc tố cục bộ. Cần thiết để có các biện pháp phòng ngừa chống lại nhiễm trùng sau quy trình thay da với TCA-SAS đến lớp nhú bởi vì khi đó hàng rào bảo vệ của da gần như bị phá hủy hoàn toàn. Kháng sinh dùng ngoài nên sử dụng trong suốt một tuần đầu sau quy trình. Đồng thời, làn da cần được làm sạch trước khi sử dụng bất kỳ sản phẩm nào và bất kỳ sự xuất hiện nào của dị ứng tiếp xúc, đôi khi có thể bị nhầm lẫn với nhiễm trùng thứ cấp, đều cần phải được theo dõi chặt chẽ.
Các kết quả của quy trình thay da với TCA-SAS cũng tùy thuộc vào hiệu quả và tính tương thích của các sản phẩm chăm sóc được sử dụng sau điều trị. Rõ ràng là quy trình điều trị nám sẽ đem lại những kết quả tốt hơn rất nhiều nếu sau đó da được chăm sóc với các chế phẩm kem dạng hydroquinon hoặc dạng retinol. Đối với các tình trạng mụn, lão hóa hay chảy xệ da, cách chăm sóc tương tự như với thay da AHA ở phần trên. Các chế phẩm kem này có thể được sử dụng càng sớm càng tốt ngay sau khi da bong tróc hoàn toàn, thường vào ngày thứ 7 của quy trình.
Chống nắng hiệu quả là việc làm vô cùng cần thiết và nên được bắt đầu vào những ngày đầu sau quy trình thay da, trước khi da được bong tróc hoàn hoàn. Thậm chí cả khi có sử dụng kem chống nắng vẫn không thể đảm bảo tránh được hoàn toàn các biến đổi sắc tố, do vậy bệnh nhân cần được yêu cầu hạn chế tối đa tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Thời gian hồi phục đối với quy trình thay da TCA-SAS là trong vòng 1 tuần, từ ngày thứ 8 bệnh nhân có thể bắt đầu trang điểm để giúp che dấu đi tình trạng ban đỏ dai dẳng.
Easy TCA®
Easy TCA® là một trường hợp ngoại lệ trong số các quy trình thay da với TCA và cần được phân biệt rõ với TCA-SAS bởi vì nó không đòi hỏi bước chăm sóc da trung hạn hay bất kỳ bước chuẩn bị nào ngay trước khi thay da, đồng thời sự biến đổi sắc tố cũng rất hiếm khi xảy ra nếu thực hiện theo quy trình chuẩn. Tình trạng đổi màu da nhẹ có thể xảy ra sau lần đầu tiên hoặc lần thứ hai sử dụng sản phẩm, tuy nhiên tình trạng này sẽ mờ dần sau những lần thay da tiếp theo.
Việc kết hợp Easy TCA® với các sản phẩm chăm sóc thích hợp sau quy trình giúp cải thiện và duy trì các kết quả tốt hơn. Các sản phẩm này nên được sử dụng ngay sau quy trình thay da đầu tiên và tiếp tục giữa các quy trình ít nhất trong khoảng 6 tuần sau lần thay da cuối cùng. Tương tự như bất kỳ loại thay da nào, việc chống nắng là rất cần thiết để bảo vệ da trong tình trạng mất lớp sừng tạm thời sau quy trình. Easy TCA® gây bong tróc da nhưng với mức độ vừa phải không gây ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt bình thường của bệnh nhân.
Phenol
Quy trình thay da với phenol đòi hỏi phải một chế độ chăm sóc da phức tạp sau điều trị: các mặt nạ dưỡng da, mặt nạ hồi phục và chăm sóc bằng mỹ phẩm trong suốt vài tháng sau quy trình. Thời gian hồi phục mong đợi thường từ 7-15 ngày tùy thuộc vào công thức được sử dụng. Bệnh nhân sẽ cần phải trang điểm ngụy trang để che dấu đi tình trạng đỏ da có thể kéo dài trong khoảng vài tuần đến vài tháng..
MỸ PHẨM SAU ĐIỀU TRỊ
Điều trị mụn
Tretinoin nên tránh được chỉ định sau và giữa các quy trình thay da bởi nó sẽ gây kích ứng da và tăng cường sự xâm nhập của các acid trong suốt quy trình tiếp theo. Thay vào đó có thể sử dụng các sản phẩm dùng ngoài khác. Acid glycolic có thể được dùng ở nồng độ thấp (8%), nó giúp làn da trở nên mềm mại hơn. Giống như retinol, thành phần này ngăn ngừa sự tắt nghẽn các lỗ chân lông, làm khô bã nhờn đồng thời kích thích chu trình đổi mới tế bào. Tocopheryl acetate có thể được sử dụng như một thành phần chống oxy hóa để chống lại các gốc tự do từ quá trình viêm. Triclosan là một tác nhân kháng viêm, kháng khuẩn và chống dị ứng. Acid glycyrrhetinic được dùng để cấp nước, chống dị ứng và chống ngứa, giúp giảm cảm giác khó chịu cho bệnh nhân. Tinh dầu dầu trà chiết xuất từ một loài cây bụi ở Úc cho tác động tương tự như benzoyl peroxide tuy nhiên không có tác dụng tiền oxy hóa. Nó có các đặc tính kháng khuẩn (gram âm và gram dương), kháng viêm (có thể ngăn chặn sự sản xuất các chất trung gian gây viêm), kháng nấm (candida và các loại nấm có hại cho da) và thậm chí là kháng virus. Một số sản phẩm dùng ngoài khác có thể được cân nhắc là acid azelaic, kháng sinh dạng kem, sát trùng,.v.v…
Điều trị tăng sắc tố
Thay da sinh học là một trong những quy trình lựa chọn đầu tay cho tình trạng tăng sắc tố da. Có nhiều loại mỹ phẩm có thể được sử dụng giữa các quy trình. Hydroquinone đã được dùng trong một thời gian dài và hiện tại vẫn phổ biến ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, thành phần này bị cấm ở châu Âu đối với mục đích thẩm mỹ. Có rất nhiều hoạt chất khác tỏ ra hiệu quả với vấn đề tăng sắc tố da. Acid kojic có thể được dùng ở dạng tinh khiết hoặc dạng chiết xuất từ nấm Aspergillus, nó có khả năng chống oxy hóa, ức chế hoạt động của men tyrosinase và thậm chí ảnh hưởng đến hoạt động thực bào của bạch cầu. Glabridin (chiết xuất từ cám gạo) có tác dụng ức chế sự hình thành sắc tố và đỏ da gây ra bởi tia cực tím nhờ vào khả năng kháng viêm và ức chế men tyrosinase. Liquiritin chứa glycyrrhizin và acid glycyrrhetinic có khả năng kháng viêm nhờ vào việc ức chế sự thoái hóa của cortisol nội sinh cũng như chứa các flavonoid có đặc tính chống oxy hóa. Chiết xuất dâu tằm có chứa arbutin và mulberroside F đều là những chất ức chế hoạt động của men tyrosinase, ngoài ra mulberroside F còn có khả năng chống oxy hóa. Các AHA (acid alphahydroxy) có thể được dùng để tăng cường sự xâm nhập của các sản phẩm điều trị vào sâu trong da. Acid latic cũng đã được mô tả có khả năng ức chế men tyrosinase. Cuối cùng là các vitamin A, E và C, với các tác dụng chống oxy hóa, kháng viêm, bảo vệ da khỏi tổn hại của tia UV và kích thích tái tạo biểu mô, chúng sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho da khi được sử dụng cho các tình trạng tăng sắc tố khác nhau.
Các công thức nổi tiếng của Kligman tỏ ra khá hiệu quả với sự kết hợp các tác dụng của tretinoin và hydroquinon, tuy nhiên gây ích ứng da nhiều hơn so với các sản phẩm khác. Mỹ phẩm điều trị nám nên được sử dụng càng sớm càng tốt sau quy trình thay da. Nên dùng 2 ngày / lần nếu có thể trước khi thoa kem chống nắng.
Cải thiện tình trạng lão hóa
Bệnh nhân dưới độ tuổi 40-45
Mấu chốt của việc điều trị là bảo vệ da bằng các thành phần chống oxy hóa mỗi ngày. Vào buổi sáng, nên sử dụng kem chống oxy hóa chứa vitamin E và thay đổi loại kem khác vào buổi tối. Một số thành phần hoạt chất mang lại rất nhiều lợi ích cho da có thể được sử dụng ngay sau quy trình thay da bao gồm:
- Các biosaccharide: polymer của đường fucose.
- Có đặc tính filmogenic tạo tác dụng hydrate hóa ngay lập tức.
- Chuyển hóa chậm trên da, do đó mang lại hiệu quả dưỡng ẩm lâu dài.
- Có khả năng kháng viêm.
- Các ceramide: thành phần tự nhiên bên trong da.
- Có khả năng chống lão hóa.
- Có tác dụng dưỡng ẩm và bảo vệ da.
- Thúc đẩy quá trình làm lành của da sau nhiều loại tổn thương khác nhau.
- Vitamin E: bảo vệ da chống lại các tổn thương từ gốc tự do. Tocopheryl acetate được dùng trong các loại mỹ phẩm là một trong những dẫn xuất bền nhất của vitamin E và sẽ tạo thành một nguồn dự trữ sau khi thẩm thấu vào da.
- Acid glycyrrhetinic: thành phần dưỡng ẩm và chống dị ứng, giúp giảm ngứa.
- Yếu tố dưỡng ẩm tự nhiên (natural moisturizing factor – NMF): bao gồm các acid amin, đường hexose, urea, acid aspartic và hexylnicotitate.
- PFPE (perflouro polymethyl isopropyl ether): một polymer filmogenic có tác dụng bảo vệ da mà không hề gây bít tắt.
Acid lipoic tồn tại dưới nhiều dạng đồng phân quang học khác nhau, trong đó chỉ có dạng R là có hoạt tính (hình 4). Acid lipoic được hấp thụ nhanh chóng ở cả 2 đường dùng là uống và thoa ngoài da, sau đó sẽ được chuyển hóa bởi các enzyme trong tế bào chất thành dihydrolipoate (DHLA). DHLA xâm nhập vào trong tế bào và màng ty thể dễ dàng, nó là một đồng yếu tố của ty thể giúp đẩy mạnh hoạt động của ty thể đồng thời ngăn ngừa sự hình thành quá nhiều các gốc tự do. Acid lipoic sở hữu khả năng hòa tan tốt trong cả dầu và nước, giúp nó có thể hoạt động hiệu quả ở tất cả các cấp trong tế bào. Acid lipoic giúp khôi phục dạng hoạt tính của vitamin C khi bị chuyển thành gốc ascorbyl sau khi nhận một electron tự do, từ đó hồi phục khả năng chống oxy hóa của vitamin này. Bên cạnh đó, nó cũng gián tiếp giúp phục hồi vitamin E. Acid lipoic bảo vệ hệ thống phòng thủ chống oxy hóa tự nhiên bao gồm các enzyme như catalase, coenzyme Q-10, glutathione và cysteine, ngoài ra còn có khả năng chống lại tình trạng chết tế bào xảy ra do nhiều nguồn stress khác nhau. Acid lipoic có thể tạo chelate với sắt, đồng, thủy ngân hoặc nhôm
Hình 4. Cấu trúc hóa học của acid (R)-lipoic
Hình 5. Chelate của sắt và acid lipoic
Bệnh nhân trên độ tuổi 40-45
Việc chống lại các biểu hiện lão hóa trên da không chỉ dựa trên sự đánh giá các tổn thương từ các nguồn tác nhân oxy hóa khác nhau mà còn phải quan tâm đến sự giảm sút nội tiết tố. Đối với phụ nữ mãn kinh hoặc sau mãn kinh, công thức bổ sung nội tiết tố tiêu chuẩn là testonterone propionate 100mg, estrone 5mg, estradiol benzoate 5mg và nước cùng tá dược vừa đủ 100g.
Ngoài ra, có thể sử dụng các chiết xuất từ khoai lang dại Mexico, các tiền chất estrogen khác hay dehydroepiandrosterone (DHEA).
DMAE VÀ TÌNH TRẠNG DA CHẢY XỆ
Một trong những biểu hiện thường gặp nhất của lão hóa là sự giảm sút độ đàn hồi của da. Làn da trở nên suy nhược, lỏng lẻo và thiếu sức sống. Một hoạt chất được sử dụng khá phổ biến hiện nay trong việc cải thiện tình trạng da chảy xệ là N,N-dimethylaminomethanol (DMAE).
Hình 6. Hiệu quả căng da khá rõ sau khi sử dụng N,N-dimethylaminomethanol (DMAE). (a) Trước; (b) Sau. Hình ảnh được cung cấp bởi John Jairo Hoyos, Colombia.
DMAE đã được sử dụng trong vài năm gần đây với mục đích tạo hiệu ứng “nâng cơ”. Mặc dù hiệu quả mà thành phần này mang lại cho da khá rõ ràng, vẫn chưa có nhiều tư liệu về cơ chế hoạt động của nó trên da. Các kiểu cấu trúc da đáp ứng tốt với DMAE cũng như nguyên nhân vì sao khá khó khăn để giải thích cách thức tác động của nó sẽ được giới thiệu trong phần tiếp theo.