BOTULIUM TOXIN
- Botulium toxin là gì
Botilium toxin (BTX) là một loại ngoại độc tố được tiết ra bởi vi khuẩn Clostridium Botulium. Có 7 loại Botulium được ký hiệu từ A đến G trong đó Botulium A được sử dụng rộng rãi trong y học và thẩm mỹ. Tác động làm tê liệt một phần hay toàn phần những vùng cơ mặt giúp cải thiện hình thái của chân mày, miệng và đường nét tổng quan của khuôn mặt. Năm 1990, Botox dùng trong thẩm mỹ lần đầu tiên đã được đăng tải trên tạp chí thẩm mỹ và từ đó Botox trở nên rất phổ biến ở Mỹ để điều trị các nếp nhăn trên da. Hiện nay Botox đã sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Hình 1. Độc tố Botulinum loại A
- Cơ chế tác dụng:
Botulium toxin gây tê liệt nhẹ cơ vân do ngăn chặn quá trình phóng thích chất dẫn truyền thần kinh Acetylcholine tại khớp thần kinh cơ. Bình thường, Acetylcholine được chứa trong các túi vận chuyển, các túi này di chuyển dọc theo các sợi thần kinh và trải qua quá trình hòa màng ở đầu mút thần kinh để phóng thích Acetylcholin vào khe synap, tiếp tục quá trình dẫn truyền.
Hầu hết các sản phẩm Botulium trên thị trường được bảo vệ bởi phức hợp protein xung quanh thành phần hoạt chất giúp sản phẩm giữ được hoạt tính trong môi trường axit. Ở những mô có pH cao như lớp hạ bì, cơ bắp, tĩnh mạch khoang, phức hợp protein-Botulium bị phân tách giải phóng Botulium dưới dạng có hoạt tính. Sau khi tiêm bắp hoặc tiêm dưới da, các sản phẩm nói trên sẽ phát huy tác dụng trong thời gian dưới một phút.
BTX-A gồm 3 phân đoạn: chuỗi nhẹ, chuỗi trung gian và chuỗi nặng. Chuổi nặng liên kết với receptor của hệ cholinergic trên màng tế bào dẫn đến quá trình hòa màng, chuổi trung gian tạo điều kiện chuyển vị trí chuổi nhẹ từ “túi vận chuyển” vào bào tương tế bào thần kinh. Chuổi nhẹ có tác dụng phân cắt phức hợp protein SNAP-25 ở tấm động thần kinh cơ, ngăn cản quá trình xuất bào của Acetylcholine vào khe synap. BTX-B phân cắt yếu tố liên kết synaptobrevin (màng cúc synap) trên “túi vận chuyển” chứ không phải phức hợp SNAP-25 nhưng cả hai loại BTX-A và BTX-B cuối cùng đều ngăn cản sự phóng thích Acetylcholine vào khe synap.
Trên lâm sàng, tác dụng của việc tiêm Botulium đạt hiệu quả cực đại 10 đến 14 ngày sau khi tiêm. Sau khoảng 1 tháng, những tế bào thần kinh không có bao myelin được hình thành mới để tái lập chức năng của đơn vị vận động. Sau 3 đến 4 tháng, hoạt động chức năng của đơn vị trở lại bình thường. Chức năng bài tiết mồ hôi có liên quan đến Acetylcholine với cơ chế tương tự co cơ, vì vậy việc tiêm Acetylcholine sẽ giúp ngăn ngừa việc tiết mồ hôi quá mức. Tác dụng ngăn tiết mồ hôi thường kéo dài hơn so với tác dụng ức chế co cơ.
Khi BTX được tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, tác động chống co cơ sẽ có hiệu lực tại chổ tiêm và vùng da bán kính 1-2 cm xung quanh. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của Botulium: thể tích tiêm, nồng độ, loại BTX được tiêm.
Khi không chủ ý co cơ, vùng cơ vẫn tồn tại trương lực cơ lúc nghỉ giúp duy trì hình dạng khuôn mặt. Cơ vùng trán, cơ nâng chân mày đối kháng tác dụng với cơ hạ chân mày vì vậy BTX thường được tiêm vào vị trí cơ hạ chân mày (nhóm cơ Depressor supercilli và Corrugator).
Ở vùng cơ miệng, BTX làm giảm tác dụng của nhóm cơ anguli oris.
- Chỉ định và chống chỉ định:
Chỉ định botox trong thẩm mỹ là để ngăn ngừa và cải thiện các nếp nhăn, làm giảm và mất tiết mồ hôi (ở những người bị chảy mồ hôi lòng bàn tay, bàn chân). Botox còn dùng để cải thiện thẩm mỹ ở những người có cơ ức – đòn – chũm to và nổi quá mức (chứng “cổ rùa”).
Chống chỉ định cho các trường hợp bị chứng nhược cơ, bệnh lupus ban đỏ hệ thống, các bệnh tự miễn.
- Cách pha và bảo quản:
Các nhà thẩm mỹ còn tranh luận về nồng độ pha loãng Botox để sử dụng cho phù hợp, tuy nhiên nhiều chuyên gia hay dùng pha loãng 100 đơn vị trong 2,5 Cc dung dịch. Như vậy đạt 4UI/0.1ml. Các chuyên gia còn có thể pha loãng theo bảng sau:
Botox (Lọ) | Pha trong dd | Số UI/0.1ml |
100UI | 1 Cc | 10 UI |
100UI | 2 Cc | 5 UI |
100UI | 2.5 Cc | 4 UI |
100UI | 3 Cc | 3.3 UI |
Khi bơm dung dịch vào lọ Botox để pha loãng cần nhẹ nhàng, tránh làm sủi bọt gây biến tính thuốc dẫn tới giảm tác dụng. Không được lắc hoặc búng vào lọ thuốc hoặc bơm tiêm để đuổi bọt khí.
Ngay sau khi hoà Botox vào dung dịch thì hoạt lực của thuốc đã bị giảm và giảm dần theo thời gian. Vì vậy các chuyên gia khuyên nên dùng trong vòng 48 giờ là tốt nhất. Tuy nhiên có một số người lại cho rằng có thể dùng trong vòng 4 tuần nếu để trong tủ lạnh nhưng khi đã lấy dùng rồi thì không được để đông trở lại trong tủ lạnh. Điều này sẽ phá huỷ làm thuốc mất tác dụng.