CÁC PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ CHỐNG LÃO HÓA (Phần II)
Các chất chống oxy hóa
Da sử dụng các chất chống oxy hóa tự nhiên để bảo vệ chính nó khỏi sự phá hủy do ánh nắng. Do đó, việc sử dụng chất chống oxy hóa bôi tại chỗ đã được nghiên cứu, nhưng thách thức là phải làm cho các công thức này được ổn định và hấp thu qua da nhằm cung cấp nồng độ đủ cao các dạng có hoạt tính đến lớp trung bì cũng như biểu bì.
Vitamin C
Nếu các retinoid là “tiêu chuẩn vàng” thì vitamin C bôi tại chỗ là “tiêu chuẩn bạc” để phục hồi lão hóa da do ánh nắng. Vitamin C (L-ascorbic acid) là chất chống oxy hóa pha nước chủ yếu của cơ thể. Vitamin C trong chế độ ăn uống là không thể thiếu cho sự sống. Stress gốc tự do từ môi trường làm cạn kiệt lượng vitamin C trên da. Tiếp xúc với tia UV liều gây đỏ tối thiểu 1,6 (MED) làm giảm 70% lượng vitamin C bình thường và với 10 MED làm giảm 54%. Mặc dù bản thân vitamin C không phải là kem chống nắng nhưng sử dụng vitamin C tại chỗ bảo vệ da chống lại sự phá hủy của năng lượng mặt trời. Là một chất chống oxy hóa, vitamin C làm bất hoạt các gốc tự do sinh ra do tia UV, làm giảm đỏ và giảm cháy nắng. Sự bảo vệ này đã được chứng minh bằng mô học: điều trị với 10% vitamin C tại chỗ làm giảm 40-60% số lượng các tế bào cháy nắng bất thường và giảm 62% sự phá hủy DNA.
Chức năng chính của vitamin C như là một đồng yếu tố cần thiết cho sự tổng hợp collagen. Khi thêm 10% vitamin C vào các nguyên bào sắp già trong in vitro, sự tăng sinh và tổng hợp collagen gia tăng thông qua yếu tố 6 và 2 tương ứng. Vitamin C cũng ức chế tyrosinase do đó làm sáng các đốm lão hóa. Xây dựng công thức là việc quan trọng để tối ưu hóa sự hấp thu của vitamin C qua da. Bởi vì L-ascorbic acid vốn đã không ổn định nên để tạo ra một hệ thống phân phối tại chỗ hiệu quả là rất quan trọng. Nhiều sản phẩn chứa các dẫn chất ổn định nhưng không được chuyển hóa qua da (như ascorbyl – 6 -palmitate hoặc magnesium ascorbyl phosphate) do đó không có hoạt tính đáng kể trên da. Sự hấp thu kem 10% vitamin C tại chỗ đã được chứng minh qua các nghiên cứu ghi nhãn phóng xạ ở lợn. Sau điều trị, 8,2% được tìm thấy trong trung bì và 0,7% được tìm thấy trong máu. Nồng độ hiệu quả nhất để phân phối tại chỗ là 20%, sẽ đạt đến nồng độ tối đa trên da sau 3 ngày.
Vitamin E (d -α – tocopherol)
Vitamin E tự nhiên là một chất chống oxy hóa quan trọng nhất, hòa tan trong lipid. Vitamin E tự nhiên trong khẩu phần ăn có thể tồn tại dưới bốn dạng methyl hóa (α,β,χ,δ), vitamin E tổng hợp là hỗn hợp của 8 đồng phân lập thể (d, l). Đồng phân d-α –tocopherol có hiệu quả sinh học cao nhất. Để đạt được hoạt tính, dạng tự nhiên không este hóa phải được sử dụng ở những nồng độ trên 2% (5% là tối ưu). Hầu hết các sản phẩm trên thị trường chứa “vitamin E” có chứa hỗn hợp của 32 đồng phân tổng hợp, este hóa và ở nồng độ tương đối thấp. Viêm da dị ứng tiếp xúc đã được báo cáo từ những công thức này mặc dù không có phản ứng bất lợi nào đã được báo cáo đối với d-α – tocopherol tự nhiên.
Hình 4. Cải thiện các nếp nhăn quanh mắt sau 4 tháng điều trị kem 0.05% d-α -tocopherol mỗi ngày, a- trước, b- sau.
Trong một mô hình ở chuột, d-α – tocopherol tại chỗ đã được chứng minh có hiệu quả thật sự ấn tượng trong việc bảo vệ chống lại tất cả phá hủy từ UV cấp tính và mãn tính và hiệu quả hơn d-α – tocopherol succinate tại chỗ đã được ester hóa. Vitamin E cũng đã được chứng minh có thể phục hồi lão hóa nhanh chóng. Hình 4 cho thấy sự giảm đáng kể các nếp nhăn quanh mắt sau 4 tháng sử dụng d -α -tocopherol (5%) mỗi ngày. Mô học đã xác nhận sự cải thiện này trên mô hình chuột. Đối với tình trạng dày lên của biểu bì và dày sừng do tia UV, tỷ lệ các tế bào cháy nắng bị phá hủy gia tăng ở lớp đáy và sự phá vỡ collagen và elastin trung bì đã được sửa chữa sau 8 tuần điều trị.
Vitamin C với vitamin E
Trong các tế bào, vitamin C và vitamin E tương tác hỗ trợ nhau để đem lại sự bảo vệ chống oxy hóa. Trong màng, vitamin E bị oxy hóa bởi vì nó làm bất hoạt các gốc peroxid tự do, và vitamin C nội bào tái sinh lại hoạt tính của vitamin E. Vitamin C với vitamin E đường uống ở liều cao bảo vệ chống lại ban đỏ do UV ở người, trong khi 1 trong 2 vitamin này không hiệu quả. So với sử dụng đơn độc, L-ascorbic acid (15%) với α -tocoperol (1%) cho sự bảo vệ chống lại ban đỏ do UV gấp 4 lần, sự giảm số lượng các tế bào cháy nắng bị phá hủy được nhận thấy qua mô học và giảm sự hình thành dime thiamine ở da lợn. Điều may mắn là sự phối hợp những chất chống oxy hóa thân dầu và thân nước trong công thức tại chỗ làm ổn định từng thành phần trong đó.
Vitamin C với vitamin E và acid ferulic
Acid ferulic là một chất chống oxy hóa mạnh có mặt trong thành tế bào của ngũ cốc, trái cây và rau xanh. Acid ferulic đơn độc hấp thu một số UV do đó bản thân nó là một kem chống nắng yếu. Khi được phối hợp với vitamin C và vitamin E, nó làm ổn định hơn công thức và hoạt động hỗ trợ nhau để gấp đôi hiệu quả bảo vệ từ 4 lên 8 lần. Sự kết hợp 3 chất này đã được đưa vào sản phẩm SkinCeuticals với 15% vitamin C, 1% vitamin E, và 0.5% ferulic acid.
Các thành phần chống oxy hóa khác
Coenzym Q10
Coenzym Q10 (ubiquinone hoặc CoQ10) là một thành phần của chuỗi vận chuyển electron của ty thể trong các tế bào thực vật và động vật, bao gồm các tế bào của người, đặc biệt là ở các cơ quan có tốc độ trao đổi chất cao như tim, gan và thận. Trong da, CoQ10 hoạt động như một chất chống oxy hóa, mặc dù nồng độ tự nhiên tương đối thấp, nồng độ ở biểu bì cao hơn trung bì 10 lần. CoQ10 đã được chứng minh có thể phục hồi quá trình lão hóa nội tại tự nhiên bằng cách gia tăng tốc độ phân chia tế bào và gia tăng acid hyaluronic tự nhiên. Độ sâu nếp nhăn giảm đã được ghi nhận sau khi sử dụng kem 0,3% ubiquinol khoảng 6 tháng. CoQ10 cũng ngăn chặn sự phá hủy collagen của UVA.
α -lipoic acid
α -lipoic acid (αLA) được tạo ra trong các tế bào thực vật và động vật, có nhiều đặc tính chống oxy hóa đáng chú ý và đã được chứng minh giúp làm chậm sự lão hóa ở các tế bào tim và não trong các nghiên cứu ở phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, bằng chứng cho việc phục hồi lão hóa ánh sáng ở da rất ít: 33 phụ nữ sử dụng 5% αLA một bên mặt trong vòng 12 tuần và ghi nhận một số người giảm các nếp nhăn, thô ráp da và làm mờ các đốm nâu. αLA có ít/ không có hiệu quả bảo vệ chống lại sự phá hủy của ánh nắng mặt trời.
Selen
Selen là một khoáng chất cần thiết cho cuộc sống con người bởi vì nó là đồng yếu tố cần thiết cho các enzym chống oxy hóa nội sinh, glutathione peroxidase và thiodoxin reductase. L-selenomethionine (0.02–0.05%) bôi tại chỗ đã được chứng minh có thể bảo vệ da khỏi sự phá hủy UV cấp và mãn (đỏ, sắc tố và ung thư da). Việc sử dụng làm gia tăng MED và làm giảm tỷ lệ ung thư da. Hơn nữa, khi sử dụng cho da bị hư hại do ánh nắng, L-selenomethionine bôi tại chỗ đã được chứng minh lâm sàng và mô học có thể phục hồi lão hóa do ánh nắng hiệu quả tương đương acid retinoic với sự giảm dày sừng và tái sinh lại collagen và sữa chữa mô elastin.
Genistein
Bảng 2. Khả năng bào vệ và phục hồi lão hóa
Genistein là một chất chống oxy hóa mạnh được phân lập từ đậu nành, đã được chứng minh có thể bảo vệ chống lại ban đỏ và ung thư da do tia UV. Là một phytoestrogen, genistein kích thích sự tổng hợp collagen và do đó có thể điều trị các nếp nhăn. Trong bảng 2, tác giả đã tóm tắt hiệu quả lâm sàng của các chất tại chỗ được nghiên cứu về khả năng bảo vệ và phục hồi lão hóa. Các chất khác gồm có niacinamide (làm mịn cấu trúc, cải thiện đỏ, đốm nâu, giảm vàng, cải thiện các đường nhăn, nếp nhăn và độ đàn hồi nhưng chỉ hiệu quả bằng 1/3-1/5 acid retinoic) và kinetin (hormon tăng trưởng thực vật tổng hợp làm chậm sự lão hóa ở thực vật, được nhận thấy phục hồi lão hóa ở các tế bào da trong phòng thí nghiệm nhưng theo kinh nghiệm của tác giả nó chỉ hiệu quả để cải thiện các nếp nhăn).
KẾT LUẬN
Sự hiện diện của lão hóa da có thể được điều trị không xâm lấn. Chiến lược điều trị gồm có phòng ngừa ban đầu (với những thay đổi trong lối sống bằng cách không hút thuốc, tránh tiếp xúc nắng quá nhiều) và điều trị. Một số phương pháp điều trị cải thiện biểu hiện ngay và một số khác hoạt động về mặt sinh lý để ức chế sự phá hủy và phục hồi sự phá hủy ở mức độ phân tử.