PHẪU THUẬT NÂNG NGỰC NHỜ CẤY MÔ MỠ TỰ THÂN (Phần II)

Quá trình chuyển biến tế bào (phân lập các mãnh tế bào mô đệm)

Dịch hút mỡ được phân tách thành phần tế bào (Processed lipoaspirate cells – PLA) và phần dịch (liposuction aspirate fluid – LAF). PLA được xử lý với 0.075% collagenase trong môi trường đệm phosphat trong 30 phút ở nhiệt độ 37°C sau khi quay ly tâm. Tế bào mỡ trưởng thành và mô được kết được phân tách trong điều kiện ly tâm ở 800 × g, 10 phút. Dịch sau li tâm ở thể huyền phù được giữ nguyên trong 30 giây ở nhiệt độ phòng và trung hòa bằng nước muối sau đó. Dịch huyền phù được lọc qua lọc milipore đường kính 100-mm. Để loại bỏ các collagenase hoàn toàn, dịch được rửa với nước cất ít nhất 3 lần bằng thao tác lập lại giữa việc huyền phù hóa dịch và quay ly tâm. Đối với phần dịch phân lập ban đầu, dịch này được quay ly tâm (800 × g, 10 phút) và huyền phù hóa bằng dịch đệm hồng cầu. Sau 5 phút ở nhiệt độ phòng, dịch thủy phân được lọc qua minipore đường kính 100-mm. Dịch này vẫn được rửa 3 lần như cách trên. Toàn bộ quá trình cần được thực hiện bởi bác sĩ hoặc kỹ thuật viên có kinh nghiệm. Các tế bào được phân lập cần được đánh giá cả về chất và lượng. Lượng hồng cầu và và các tế bào có nhân được định lượng bằng máy đếm tế bào (dùng trong các xét nghiệm máu tiêu chuẩn). Toàn bộ quá trình này diễn từ khi phân lập đến định lượng mất khoảng 70-80 phút. Một lượng nhỏ các mãnh mô đệm có thể được nuôi cấy để xác định khả năng sinh tồn của tế bào, một phần được đông lạnh và lưu trữ trong nito lỏng nhằm phục vụ mục đích truy vết tế bào nếu cần thiết.

Kết quả thử nghiệm lâm sàng (2003 – 2010)

Một thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trên 567 với 501 ca phẫu thuật cấy mỡ vào ngực trên những trung tâm khác nhau. 97 bệnh nhân tiến hành tái tạo ngực sau phẫu thuật cắt bỏ vú trước đó, 88 ca trên tiến hành trên vùng mặt, 4 ca trên tay và 4 ca ở vùng mông. 38 ca được tiến hành ở cả 2 bên ngực. Tất cả bệnh nhân đều là phụ nữ có BMI trong khoảng 19.6 ± 2.1 trong độ tuổi 13-73 tuổi. Lượng dịch mỡ tiêm trung bình 268.6 ± 48.2 mL đối với ngực trái và 273.1 ± 40.4 mL đối với ngực phải.

Đánh giá trước và sau phẫu thuật

Kết quả đánh giá dựa trên việc đo lường chu vi tối đa và đường kính đáy thông qua các phương pháp chụp nhũ ảnh, siêu âm, quay phim. Một hệ thống đo lường 3 chiều được ứng dụng nhằm đo đặt thể tích ngực ở phương thẳng đứng. Các nguồn phát huỳnh quang chiếu theo phương thẳng đứng xuống bề mặt ngực, kết quả kỹ thuật số không gian 3 chiều được ghi nhận cho đánh giá thông qua 3 điểm neo tại vai, xương ức, khuyết cảnh xương ức.

Kết quả

Toàn bộ quy trình diễn ra trong khoảng 3.5 – 4 giờ (bao gồm cả thời gian quay ly tâm). Giai đoạn tiêm dịch mỡ mất khoảng 35-60 phút cho cả 2 bên ngực. Chảy máu và phù cục bộ có thể xảy ra ở một vài vị trí, nhưng sẽ khỏi sau 1-2 tuần. Các mô mỡ cấy sẽ được hấp thụ sau thời điểm tiến hành phẫu thuật 2 tháng, nhưng với hiệu quả cao nhất vào tháng đầu tiên. Độ căng da trong 2 tháng đầu suy giảm. Đo đạt 3D sau 6 tháng đánh giá thể tích mỡ cấy ghép còn tồn tại trong khoảng 100–250 mL (40%- 90%). So với phương pháp gia tăng kích thước ngực thông thường, việc nâng ngực có hỗ trợ tế bào tự thân đem lại kết quả tương tự nhưng với lượng dịch tiêm vào ngực thấp hơn và không xuất hiện những nốt sần. Hình thái ngực mềm mại, đường nét tự nhiên. Các đối tượng tham gia nghiên cứu hài lòng với quả thí nghiệm. mặc dù quá trình gia tăng kích thước ngực chậm. Kết quả chụp cắt lớp và MRI mô ngực cho thấy tỷ lệ sóng sót của tế bào mỡ không chỉ ở lớp dưới da mà còn ở các vị trí xung quanh tuyến vú và cơ ngực. Ngay sau phẫu thuật, các đối tượng thử nghiệm đều cảm nhận được sự mềm mại của mô ngưc, không xuất hiện đối ngực nào sau 6 tháng.

Bàn luận

Mô mỡ nên được cấy ghép với lượng nhỏ, trên vùng mô có đường kính khoảng 3mm. Do quá trình phân bố mô mỡ cấy ghép trong ngực đòi hỏi thời gian để phân bố đồng đều. Ống tiêm có nối dây kết hợp với đầu kim dài (150 mm) có thể điều chỉnh lượng dịch bơm thường được sử dụng. Thiết bị này đảm bảo độ an toàn và chính xác kể cả khi bác sĩ tiêm một lượng dịch mỡ tương đối trong một khoảng thời gian ngắn. Phương pháp sử dụng một ống thông có đường kính trong 3.5 mm, máy quay ly tâm dịch mỡ hút ra từ cơ thể, dịch mỡ hút ra được trữ mát đến khi được tiêm lại vào ngực. Kết quả gia tăng kích thước ngực tốt hơn ở dịch mỡ được quay ly tâm so với không được quay, nguyên nhân do tỷ lệ tỷ lệ tế bào mỡ tiền thân/mô mỡ cao hơn ở dịch quay ly tâm. Hơn nữa, quá trình quay ly tâm giúp bác sĩ loại bỏ nước trong dịch trong khi nước gây cản trở quá trình gắn kết tế bào mỡ tiền thân vào mô mỡ sau khi cấy của nước.

Chỉ định

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của phương pháp như: sự dư thừa da vùng ngực, BMI, tuổi tác, chất lượng mỡ hút ra, bệnh tự miễn, tiền sử cấy ghép mô ngực trước đó, tiền sử sử dụng corticoid. Đối với bệnh nhân gầy, bác sĩ không thể hút 1500 cc dịch mỡ, đặc biệt với những bệnh nhân gầy và chưa có con, ngực họ tương đối phẳng và da vùng ngực căng nên không thể nhận một lượng lớn mô mỡ cấy ghép.

Kết quả sẽ không như mong đợi ở các bệnh nhân khi dịch mỡ hút quá lỏng hoặc có quá nhiều mô sợi, bệnh nhân đã trải qua xạ trị, phẫu thuật cắt bỏ vú.

Những đối tượng thích hợp nhất với phương pháp:

Người có đủ lượng mỡ từ vùng mông, đùi, bụng và vùng da vú đàn hồi tốt, không có sẹo trước đó, phụ nữ đã có con và từng cho con bú.

Biến chứng

  • Hình thành các nang đường kính bé hơn 5 mm, nang có đường kính 5-15 mm tương đối ít gặp. Không cần can thiệp điều trị đối với các nang có đường kính bé hơn 10nm.

Vùng lấy mỡ tự thân có những biểu hiện bất thường như: tụ dịch, xơ hóa lớp hạ bì

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa