SỬ DỤNG LASER TRONG ĐIỀU TRỊ TĨNH MẠCH Ở CHÂN (PHẦN II)

Công nghệ

Các tia laser chủ yếu được sử dụng cho tĩnh mạch chân có màu đỏ tươi, nhỏ (0.5 mm hoặc nhỏ hơn) là laser với nguồn ánh sáng nhìn thấy hoặc IPL. Các laser xung hồng ngoại gần được thử trên tĩnh mạch chân đường kính 0.5 mm hoặc lớn hơn. Các laser được báo cáo là có hiệu quả bao gồm màu xanh lá (potassium titanyl phosphate [KTP] 532 nm), nhuộm xung màu vàng (585-605 nm), alexandrite (hồng ngoại, 755 nm), diode (hồng ngoại, 810 nm), Nd:YAG (hồng ngoại tới 1064 nm), và nguồn sáng IPL phổ rộng (515-1200 nm). Gần đây, laser diode 940 nm đã chứng tỏ hiệu quả trong điều trị tĩnh mạch chân. Các tia laser này được thiết kế với spot size lớn, đường kính điển hình 3-8 mm, và với độ rộng xung 2-100 ms (miligiây) để phù hợp với thời gian giãn nở của nhiệt trong suy giãn tĩnh mạch lớn hơn. Hầu hết kết hợp với cơ chế làm mát da để cho phép máu lưu thông tốt hơn và hạn chế tổn thương biểu bì.

Laser KTP 532 nm sử dụng cho mạch máu có màu đỏ tươi. Ánh sáng 532 nm được hấp thu bởi hemoglobin đã được oxy hóa và thâm nhập vào độ sâu không quá 0.75 mm là lý tưởng cho các mao mạch gần bề mặt da. Với laser KTP, kết quả tích cực nhất đã đạt được bằng cách sử dụng spot size lớn hơn (3-5 mm) và độ rộng xung dài hơn 10-50 ms với tần số 14-20 J/cm2.

PDL (585 nm, độ rộng xung 450 ms) có hiệu quả cao trong điều trị các tổn thương mạch máu khác nhau, đặc biệt là giãn mao mạch trên khuôn mặt và vết chàm tím. PDL ít hiệu quả hơn đối với tĩnh mạch chân. Mặc dù ánh sáng 595 nm có thể xuyên qua 1.2 mm để đạt đến độ sâu điển hình của mạch máu ở chân, nhưng độ rộng xung không thích hợp để phá hủy tất cả các mạch máu có đường kính khoảng 0.1 mm hoặc nhỏ hơn. Ban xuất huyết tức thời cũng là một hậu quả trong điều trị, dẫn tới tăng sắc tố sau viêm kéo dài lớn hơn so với liệu pháp chích xơ tĩnh mạch.

Các PDL xung dài (đó là 585 nm, 590 nm, 595 nm, 600 nm) có khả năng thâm nhập sâu hơn vào da, và độ rộng xung từ 1.5-40 ms cho phép nhiệt phá hủy các mạch máu tương ứng tới kích thước của mao mạch suy giãn ở chân.

Laser alexandrite xung dài (755 nm) đã được điều chỉnh độ rộng xung lên đến 20 ms hoặc lâu hơn. Về mặt lý thuyết, bước sóng này xâm nhập tới độ sâu từ 2-3 mm. Các thông số điều trị tối ưu cho laser alexandrite xung dài là 20 J/cm2, tăng gấp đôi độ rộng xung với độ lặp lại là 1 Hz. Trong một nghiên cứu, các mạch máu đường kính trung bình (0.4-1 mm) đáp ứng tốt nhất và các mạch máu với đường kính nhỏ đáp ứng kém hơn.

Laser diode tạo ra ánh sáng đơn sắc kết hợp thông qua sự kích thích các diode nhỏ. Một nhóm các laser diode (độ rộng xung 5-250 ms) đã được sử dụng với kết quả đáng khích lệ trong điều trị giãn mao mạch bề mặt và mạch máu kích thước nhỏ tới trung bình ở sâu hơn. Việc sử dụng các bước sóng hồng ngoại gần không chỉ ở sự xâm nhập sâu hơn của bước sóng và giảm hấp thu melanin, mà còn quan trọng hơn là đỉnh hấp thu hemoglobin xảy ra tại 915 nm, trong đó hemoglobin khử oxy là mục tiêu. Bằng cách chọn các bước sóng dài hơn, các mạch máu sâu hơn lên đến 3 mm dưới bề mặt (ví dụ, tĩnh mạch nuôi, tĩnh mạch lưới) có thể được điều trị theo lý thuyết, và bằng cách thay đổi độ rộng xung từ vài mili giây tới vài trăm mili giây, một loạt các mạch máu kích thước khác nhau có thể là mục tiêu.

Kết quả trong điều trị tĩnh mạch chân sử dụng một laser diode xung 930 nm, gần với peak hấp thu hemoglobin 915 nm cũng được khuyến khích. Tác động phụ đáng kể là đau dẫn đến hạn chế sử dụng bước sóng này, và đặc tính của đau được gây ra bởi nhiều laser vùng hồng ngoại gần. Laser diode 940 nm cho thấy tỷ lệ đau giảm và đáp ứng tốt hơn với mạch máu giữa 0.8-1.4 mm.

Sự kết hợp sử dụng RF với laser diode để điều trị tĩnh mạch chân đã cho thấy kết quả lâu dài không tốt hơn so với laser riêng lẻ. Trelles và cộng sự đã điều trị 40 bệnh nhân loại da II-IV với tối đa ba điều trị trên tĩnh mạch chân 1-4 mm cách 2 tuần với laser diode 900 nm (thời gian phơi nhiễm 250 ms, tần số trung bình 60 J/cm2) và RF (năng lượng 100 J/cm3). Đánh giá sau 6 tháng cho thấy mạch máu được điều trị lớn hơn 80%, dựa trên đánh giá lâm sàng. Khả năng lặp lại của nghiên cứu rất khó khăn, và việc sử dụng kết hợp RF bóc tách không được đánh giá độc lập.

Laser Nd:YAG xung dài 1064 nm nhắm tới các mạch máu sâu, tương đối lớn. Lợi ích chính của bước sóng này là thâm nhập sâu và sự hấp thu tương đối thấp của melanin. Việc điều trị các mạch máu trên da vẫn có thể trên lý thuyết. Tuy nhiên, cần sử dụng năng lượng cao để thâm nhập đầy đủ. Chỉ khi tần số hiệu quả và điều kiện tỏa nhiệt thuận lợi mới có thể đạt được ở mạch máu lớn (1-2 mm) với hemoglobin khử oxy.

Nhìn chung, điều trị bằng laser xung dài với bước sóng 1064 nm tương đối gây đau, cần làm mát và gây tê tại chỗ. Những mạch máu lớn hơn, đường kính hơn 0.5 mm đáp ứng tốt nhất. Mạch máu lớn tới 2 mm (hiếm khi lên đến 3 mm) có thể được điều trị với laser Nd:YAG xung dài. Một số tác động của áp suất thủy tĩnh có thể gặp khi điều trị những mạch máu lớn hơn, mặc dù cơn đau của bệnh nhân tăng đáng kể hơn mạch máu có đường kính 2 mm. Dữ liệu cho rằng nên sử dụng spot nhỏ hơn và thậm chí tần số cao hơn, kể cả khi các mạch máu nhỏ hơn. Trong nghiên cứu ban đầu, các thiết lập tối ưu là tần số 80-210 J/cm2 và độ dài xung đơn là 10-30 ms. Để đảm bảo sự thoải mái cho bệnh nhân, phải sử dụng một số phương tiện làm lạnh, bao gồm tiếp xúc làm lạnh, máy làm lạnh hoặc gel lạnh.

Laser IPL được phát triển như một thiết bị để điều trị các mạch máu phình giãn. Bằng cách sử dụng ánh sáng không liên tục phát ra từ đèn flash, độ rộng xung có thể được điều chỉnh phù hợp với thời gian giãn nhiệt của mạch máu đường kính lớn hơn 0.2 mm, và các bộ lọc được dùng để loại bỏ bước sóng thấp hơn ánh sáng nhìn thấy. Tần số có thể rất cao khoảng 90 J/cm2. Xung liên tục từ 1-12 ms và đồng bộ với 1-100 ms cung cấp các bước sóng 515-1000 nm. Nó thường được sử dụng với bộ lọc 550-570 nm để cung cấp bước sóng màu vàng và đỏ với một số hồng ngoại.

Tiềm năng điều trị của IPL được giải thích bởi các đặc tính quang học của hemoglobin khi kích thước và chiều sâu của bình chứa (mạch máu) và trạng thái oxy hóa được thay đổi. Do kích thước của mạch máu tăng đến đường kính 1 mm, nó hấp thu hơn 67% ánh sáng, thậm chí ở các bước sóng dài hơn 600 nm. Sự hấp thu này thậm chí còn quan trọng hơn đối với các mạch máu có đường kính 2mm. Do đó, một nguồn sáng cao hơn 600 nm nên được xâm nhập sâu hơn của năng lượng nhiệt, do đó cho phép hấp thu nhiều hơn bởi deoxyhemoglobin. Lý do cho hiệu ứng này là hệ số hấp thu trong máu cao hơn các mô xung quanh cho các bước sóng 600-1000 nm.

Một thiết bị tạo ra ánh sáng không liên tục phổ dài hơn 550 nm được cho là nhiều ưu điểm hơn so với hệ thống laser bước sóng đơn. Những lợi ích này bao gồm sự hấp thu bởi cả oxy hóa hemoglobin và khử oxy hemoglobin và bởi các mạch máu lớn hơn nằm sâu trong lớp trung bì. Các ưu điểm khác là spot size lớn hơn và tỷ lệ ban xuất huyết tương đối thấp, nhưng nhược điểm là nguy cơ thay đổi sắc tố khi các thiết bị này không được vận hành bởi những người có chuyên môn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa