TÌM HIỂU VỀ CHẤT LÀM TRẮNG GLUTATHIONE (PHẦN 1)
Glutathione là một thiol-tripeptide trọng lượng phân tử thấp đóng một vai trò nổi bật trong việc duy trì sự cân bằng oxy hóa – khử trong tế bào. Ngoài các đặc tính chống oxy hóa đáng chú ý, việc phát hiện ra đặc tính chống hình thành sắc tố của glutathione đã làm cho nó được biết đến như một chất làm trắng. Nó được sử dụng rộng rãi theo chỉ dẫn này ở nhiều quốc gia. Tác dụng làm sáng da của nó là do ức chế trực tiếp cũng như gián tiếp enzym tyrosinase và chuyển từ sản xuất eumelanin sang phaeomelanin. Glutathione có sẵn ở dạng uống, tiêm và bôi ngoài da. Mặc dù việc sử dụng tiêm tĩnh mạch glutathione rất phổ biến, nhưng không có bằng chứng để chứng minh hiệu quả của nó. Thực tế, các tác dụng phụ gây ra bởi glutathione đường tĩnh mạch đã dẫn đến việc Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Philippine cảnh báo việc sử dụng nó cho các chỉ dẫn khác trên nhãn như làm trắng. Hiện nay, có ba thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ủng hộ cho tác dụng làm trắng và độ an toàn cao khi sử dụng glutathione đường uống và bôi ngoài da. Tuy nhiên, các câu hỏi quan trọng như thời gian điều trị, hiệu ứng làm trắng duy trì bao lâu và cách để duy trì vẫn chưa được trả lời. Nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, giả dược với quy mô lớn hơn, theo dõi lâu dài để thiết lập mối liên quan của phân tử này với các rối loạn về tăng sắc tố và làm sáng da.
Một tone màu da sáng được coi là đặc điểm vượt trội trong hầu hết các chủng tộc, đặc biệt ở phụ nữ Châu Á hoặc Châu Phi với kiểu da Fitzpatrick IV-VI. Tỷ lệ rối loạn sắc tố cao hơn ở những kiểu da này gây thêm nhiều vấn đề cho bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu làm trắng da ngày càng tăng, nhiều công ty dược phẩm đang phát triển các phân tử khác nhau để làm sáng da. Rất nhiều các chất khử sắc tố dùng ngoài da được biết như: hydroquinon, acid glycolic, arbutin, acid kojic, vitamin C, vitamin E và niacinamide. Sự ra đời của các phân tử khử sắc tố mới hơn như: pycnogenol, chiết xuất phong lan và tảo biển, acid cinnamic, đậu nành, aloesin và Boswellia (nhũ hương) đã mang đến nhiều sự lựa chọn hơn. Ngoài các tác dụng bất lợi của những tác nhân này, hạn chế quan trọng là chúng chỉ có tác dụng tại chỗ. Do đó, tác động làm sáng da hệ thống bắt đầu được tìm kiếm. Những tác nhân được biết làm sáng da hệ thống bao gồm: glutathione, acid tranexamic, L-cysteine peptide, vitamin C, các chiết xuất thực vật khác nhau và sự kết hợp của chúng.
Cấu trúc phân tử và chức năng của Glutathione
Glutathione (γ-glutamyl-cysteinylglycine) là một phân tử nhỏ, trọng lượng phân tử thấp, thiol-tripeptide tan trong nước được hình thành bởi ba acid amin (glutamate, cysteine và glycine). Nó là một hợp chất phổ biến với nhóm sulfhydryl có hoạt tính sinh học với phân tử cysteine như một thành phần hoạt động của phân tử. Nhóm sulfhydryl này cho phép tương tác với một loạt các hệ thống sinh hóa, GSH là dạng hoạt động của nó. Glutathione là một trong những hệ thống chống oxy hóa hoạt động tích cực nhất trong sinh lý ở người.
Hoạt tính sinh học: Chu trình oxy hóa-khử glutathione
Glutathione tồn tại ở hai dạng biến đổi, glutathione khử (GSH) và glutathione oxy hóa (GSSG). GSH là dạng nội bào chiếm ưu thế, hoạt động như một chất chống oxy hóa mạnh và bảo vệ cơ thể chống lại các hợp chất độc hại và chất lạ sinh học (xenobiotics). Trong quá trình này, GSH liên tục bị oxy hóa thành GSSG bởi enzym glutathione peroxidase (Hình 1). Để duy trì sự cân bằng oxy hóa-khử nội bào, GSH được bổ sung thông qua việc giảm GSSG bởi enzym glutathione reductase.
Hình 1: Chu trình oxy hóa-khử glutathione, chứng minh sự chuyển đổi liên tục của glutathione
dạng oxy hóa và dạng khử
Chức năng sinh học của glutathione
Glutathione đóng vai trò quan trọng trong nhiều chức năng sinh học khác nhau như: xúc tác các phản ứng trao đổi, duy trì nhóm sulfhydryl của protein và các phân tử khác, chống lại các chất lạ sinh học,…