BỆNH LÝ HIV ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÀN DA( PHẦN III)

Nhiễm nấm

Nông

Candida

Nhiễm nấm candida là một vấn đề xảy ra phổ biến ở bệnh nhân HIV, chiếm khoảng 50% số bệnh nhân đang trong quá trình điều trị. Các tổn thương niêm mạc thường gặp, tuy nhiên đầu tiên là ở móng gây các rối loạn về móng như tróc móng, lằn ngang và trắng đục móng., viêm móng cấp và mạn tính xuất hiện ở giường móng và chốc mép. Vì HSV cũng là một nguyên nhân phổ biến gây ra bệnh viêm móng cấp tính trong  HIV nên cần thực hiện xét nghiệm cụ thể để xác định. Đối với những bệnh nhân không nhiễm HIV, nhiễm candida cũng cần một thời gian dài điều trị với thuốc kháng nấm toàn thân như itraconazole, trong khi viêm móng và chốc mép thì đáp ứng tốt với các tác nhân tại chỗ như miconazole. Chốc mép chảy nước có thể làm khô bằng cách dùng băng gạc chứa kali permanganat 15 phút/ngày hoặc các biện pháp khác giúp khu vực ấy khô như dùng bột talc và sục khí.

Nhiễm nấm ở trung bì

Nhiễm nấm ở trung bì rất phổ biến ở bệnh nhân nhiễm HIV và cso thể lan rất rộng với hình thái bất thường. Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là nấm da chân, nấm móng, nấm da đùi, nấm toàn thân, nấm da đầu và nấm da mặt. Các biểu hiện này cũng tương tự với những cá thế không nhiễm HIV. Nấm da cũng có thể bị nhầm lẫn với các bệnh khác như viêm da tiết bã, vẩy nến, sự hiện diện của các tổn thương không đối xứng cũng là dấu hiệu củng cố cho nhiễm nấm. Nấm da chân thường xuất hiện ở các kẽ ngón chân và lòng bàn chân, tổn thương dạng bỏng rộp và dày sừng bàn chân. Nấm móng thường đi kèm với nấm da chân và thường gây dày sừng, viêm móng và bạch biến. Tác nhân nhiễm nấm trong trường hợp này thường gặp là Trichophyton rubrum. T.rubrun thương ảnh hưởng đến tất cả các móng tay, móng chân hình thành hội chứng nấm trắng móng từ gốc móng. Nấm da chân thường là con đường cho Stretococci và Staphylococci xâm nhập và gây viêm tế bào cho bắp chân dưới. Hơn nữa, các vi khuẩn gram âm, ví dụ như pseudomonas cũng góp phần làm xuất hiện những tổn thương giữa các ngón chân, sự xâm nhập có thể được hạn chế bằng thuốc sát trùng hoặc đắp gạc chưa kali permanganate. Nấm da đùi biểu hiện bằng những mảng bám xuất hiện ở vùng háng, có thể mở rộng đến mông và đùi. Nấm toàn thân thường có thể từ sự lan rộng của nấm da đùi, một lần nữa T.rubrum là nguyên nhân phổ biến nhất. Các tổn thương không điển hình bao gồm các mảng bám, nốt sần và chóc vảy. Nấm da mặt có thể giống với eczema, bất đối xứng và có ranh giới rõ ràng để chẩn đoán. Nấm da đầu không thường xuất hiện ở người lớn và có những biểu hiện sau: rụng tóc mảng, da đầu biểu hiện giống viêm da tiết bã hoặc nổi mụn mủ một phần hoặc toàn bộ da đầu. Nhiễm nấm nang lông cũng không xuất hiện thường xuyên, chủ yếu là ở mông và bắp chân, mụn đỏ nang lông là dễ thấy nhất. Điều trị nấm nấm phổ rộng hoặc các loại kháng nấm toàn thân như imidazole, triazole hoặc terbinane.

Nhiễm nấm sâu

Crytococcosis

Tình trạng thường gặp nhất của bệnh nhân HIV nhiễm Cryptococcus neoformans là viêm màng não cấp. Tổn thương da xuất hiện trên khoảng 10-20% trường hợp, biểu hiện phổ biến nhất là các nốt sần như mụn tương tự như u mềm lây hoặc HSV thường nổi đơn lẻ, thành cụm và thường nổi trên mặt. Các tổn thương riêng lẻ có kích thước từ 2-10mm. Các biểu hiện lâm sàng hiếm gặp khác như các mảng bám như viêm tế bào, loét, tổn thương dạng virus herpes và các nốt sần dưới da. Chẩn đoán được xác nhận bằng sinh thiết da phát hiện các loại nấm crytococcal, tác nhân gây bệnh cũng có thể được nuôi cấy từ mẫu sinh thiết da. Hầu hết các trường hợp báo cáo về da nhiễm crytococcal ở bệnh nhân HIV đều có liên quan đến nhiễm trùng hệ thống, thường là hệ thống thần kinh trung ương nên bệnh nhân có tổn thương da cần được đánh giá thích hợp. Điều trị ban đầu có thể là tiêm tĩnh mạch amphotericin có hoặc không có flucytosine, sau đó dự phòng thứ phát, thường là với itraconazole.

Histoplasmosis

Nhiễm histoplasmosis làm một bệnh nhiễm trùng cơ hội tương đối phổ biến ở những bệnh nhân HIV đang sống hoặc di chuyển qua vùng dịch tể, tổn thương xuất hiện ở da quan sát thấy trên khoảng 10% các trường hợp. Không giống với tổn thương da do crytococcal, tổn thương biểu mô tế bào da có khuynh hướng không đặc hiệu, mặc dù tổn thương ở miệng là đặc trưng. Các vết thương thường ở mặt và có thể có các hình thái sau đây: nốt sần, u cục, viêm lỗ chân lông, mụn trứng cá dạng herpes, viêm tế bào, loét, xuất huyết và đôi khi có vảy nến. Tổn thương ở miệng có thể là loét, thủng vòm miệng hoặc nổi sần. Các tổn thương da thường xảy ra cấp tính, có sốt, giảm cân, bệnh chứng ở gan hoặc phổi. Sinh thiết da có thể phát hiện histoplasma capsulatum hoặc nấm từ mẫu nuôi cấy. Điều trị bằng amphotericin hoặc itraconazole và dự phòng thứ phát được yêu cầu. Hai loại coccidiodomycosis và sporotrichosis cũng có liên quan đến những tổn thương về da ở bệnh nhân HIV. Cả hai trường hợp các tổn thương đều không đặc hiệu, thường là các nốt sần, u nhú và mảng bám tạo thành áp-xe, lõm da và mụn cơm. Sinh thiết da là cần thiết để chẩn đoán, điều trị ban đầu với amphotericin và duy trì. Ở Đông Nam Á, penicillin được sử dụng phổ biến ở những trường hợp nhiễm HIV, tổn thương da ít khi bị hoại tử, viêm lỗ chân lông và loét. Các bệnh nhiễm nấm sâu khác hiếm được báo cáo là paracoccidioides brasiliensis và trichosporon beigelii.

Ký sinh trùng

Cái ghẻ

Loài Sarcoptes scabiei mite gây ra ghẻ điển hình trên lâm sàng trong bệnh HIV giai đoạn đầu. Ngứa là biểu hiện thường gặp, đặc biệt tăng vào ban đêm và khi nhiệt độ tăng. Ngứa thường xuất hiện trong một tháng đầu sau khi tiếp xúc với vật thể lây nhiễm ghẻ. Đợt cấp biểu hiện bằng sự bùng phát các mụn viêm hoặc thậm chí có thể là các u nhú lớn xuất hiện xung quanh móng tay, vùng bụng, mông, bắp đùi và trên bìu hoặc dương vật ở người nam. Cái ghẻ xuất hiện trong các hang ở những vị trí như kẻ ngón tay, kẻ ngón chân, bộ phận sinh dục nam, mặt và da đầu thì ít hơn. Chẩn đoán xác định bằng cách quan sát trên kính hiển vi mẫu cạo trên da với 1 giọt kali hydroxide. Trong bệnh HIV tiến triển đặc biệt khi số lượng CD4 giảm xuống dưới 150 tế bào/mm3. Điều trị ghẻ có thể dùng dung dịch permethrin, malathione hoặc benzyl benzoate, dùng thoa toàn thân và rửa sách dau 24 giờ. Nếu thất bại có thể dụng iveermectin 200mg/kg liều duy nhất cho hiệu quả cao. Tuy nhiên càn dùng thuốc chống hình thành sẹo và loại bỏ cái ghẻ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa