CÁC PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ CHỐNG LÃO HÓA (Phần I)

 

GIỚI THIỆU

Bài viết này trình bày các phác đồ điều trị cơ bản để bảo vệ da khỏi sự phá hủy của ánh sáng và làm chậm biểu hiện lão hóa. Bốn bước cần thiết là làm sạch, tẩy da chết, bảo vệ da và điều trị. Các kỹ thuật hữu ích và nghiên cứu khoa học chứng minh hiệu quả của các thành phần cụ thể được trình bày dưới đây.

LÀM SẠCH

Làm sạch đúng cách là một phần thiết yếu trong chăm sóc da. Vùng mặt tích lũy các vết bẩn nội sinh và ngoại sinh. Kích thước và mật độ tuyến bã nhờn lớn nhất ở vùng mặt, vùng lưng trên và ngực. Các dầu tự nhiên, mồ hôi và các chất bã nhờn tạo ra một màng hydrolipid trên bề mặt da, cùng với việc sử dụng mỹ phẩm sẽ làm giữ lại và tích lũy các chất ô nhiễm từ môi trường như bụi, các chất kích ứng trong không khí và các hợp chất từ khói thuốc lá. Chăm sóc cần được thực hiện thông qua làm sạch mà không gây kích ứng hay làm khô da. Do đó, một sản phẩm làm sạch hiệu quả, dịu nhẹ là cực kỳ quan trọng. Các chất hoạt động bề mặt là các thành phần gắn kết với bụi bẩn và dầu để loại bỏ khỏi da. Những chất hoạt động bề mặt này được phân loại dựa vào sự tích điện của chúng trên nửa bề mặt hoạt động như anion (tích điện âm), cation (tích điện dương), lưỡng tính (cả âm và dương) và không ion. Các thành phần của các chất hoạt động bề mặt có thể gắn kết với các protein của lớp sừng, giảm khả năng gắn kết và giữ nước của da. Sử dụng thường xuyên, liên tục các chất hoạt động bề mặt có thể phá hủy hàng rào da. Các chất hoạt động bề mặt tổng hợp mới cải thiện khả năng làm sạch và ít kích ứng hơn. Những thành phần khác của các sản phẩm làm sạch gồm có các polypeptide và các polyme tổng hợp để tạo ra một sản phẩm dịu nhẹ và làm mềm da, các polyme để dưỡng ẩm, các chất bảo quản, các chất cản quang và chất tạo mùi. Khi làm sạch thường xuyên, những thành phần này có thể gây ra các nhạy cảm hoặc dị ứng tiếp xúc ở một số người. Do các chất làm sạch được rửa sạch nên thời gian chúng tiếp xúc với da giảm, ít gây ra dị ứng tiếp xúc. Các sản phẩm làm sạch mới ít kiềm hơn các công thức cũ vì vậy chúng ít gây khô da hơn. Trong những năm gần đây, các chất kháng khuẩn (như triclosan và triclocarban) đã được thêm vào các sản phẩm làm sạch cho tay. Điều ngạc nhiên là những thành phần này hiếm khi gây kích ứng da. Tuy nhiên, một số bác sĩ da liễu nêu ra những quan ngại, lo sợ sự phát triển đề kháng vi khuẩn với những kháng sinh này khi sử dụng thường xuyên. Ban đầu, triclosan được cho là tiêu diệt vi khuẩn bằng cơ chế phổ rộng, tương tự như alcohol và peroxid. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây chứng minh rằng triclosan hoạt động tại một vị trí gen cụ thể ở E.coli để ức chế sự sao chép, vì vậy các chuỗi đề kháng có thể tiến triển. Việc rửa sạch da với các sản phẩm dịu nhẹ giúp loại bỏ bụi bẩn và được chứng minh là hiệu quả khi sử dụng những hợp chất kháng khuẩn này. Làm sạch vùng mặt nên được thực hiện với nước ấm và bằng các ngón tay. Vùng mặt và cổ nên được rửa sạch với các chuyển động đi lên và hướng ra ngoài, di chuyển vuông góc với hướng của các nếp nhăn mà có thể hình thành sau này. Ở vùng trán, má, cằm và cổ di chuyển đi lên và đi ra, phía trên môi trên và dưới mắt, di chuyển ngang sau đó đi lên ở các cạnh như hình 1. Kem chống nắng, kem dưỡng ẩm hoặc các phương pháp điều trị khác nên được áp dụng ngay sau khi làm khô nhẹ bằng khăn.

Hình 1. Để điều trị các nếp nhăn khi làm sạch cần di chuyển các ngón tay nhẹ nhàng hướng lên theo chiều ngang dọc môi trên và đi lên sau đó hướng ra ngoài phần còn lại của vùng mặt, vuông góc với vị trí của các nếp nhăn.

TẨY DA CHẾT

Hình 2. Các nếp nhăn nhỏ và da không láng mịn có thể được điều trị ngay tại nhà bằng cách tẩy da chết. Sự cải thiện được nhận thấy ở vùng mặt của một phụ nữ 60 tuổi sau khi rửa mặt nhẹ bằng bông không có polyester và sử dụng chất tẩy da chết dạng sáp để dính cơ học vào các tế bào bề mặt và loại bỏ chúng. (a) và (c) trước khi tẩy da chết, (b) và (d) sau khi tẩy da chết.

Tẩy da chết là điều trị trẻ hóa đem lại sự cải thiện diện mạo ngay lập tức. Tẩy da chết loại bỏ các lớp bên ngoài của lớp sừng và do đó điều trị khô da dày sừng. Chà sát để tẩy da chết theo hướng vuông góc với các nếp nhăn để giảm thiểu các nếp nhăn nhỏ do bề mặt được làm nhẵn hơn (hình 1). Có thể tẩy da chết bằng hóa học hoặc cơ học. Các chất tẩy da hóa học như các hydroxyacid và acid retinoic loại bỏ các tế bào chết bề mặt bằng cách làm bong tróc lớp sừng. Các chất tẩy da cơ học gồm có các hạt làm sạch, kem sáp bám chặt vào các tế bào bề mặt cũng như làm trầy nhẹ da bằng cách dùng khăn bông, các bông không có polyester, bàn chải hoặc xơ mướp. Các chất tẩy da chết có hạt với các tinh thể nhôm oxid có thể hiệu quả nhưng người sử dụng cần phải cẩn thận không để những hạt này dính vào mắt. Sự cải thiện ngay lập tức các nếp nhăn nhỏ bằng cách tẩy da chết nhẹ có thể được đánh giá trong hình 2. Mặt nạ tẩy da chết là một trong những sản phẩm tẩy da cơ học lâu đời nhất. Mặt nạ có thể rửa sạch được hoặc lột bỏ. Một số mặt nạ rửa sạch được làm bằng đất sét, cứng lại và được loại bỏ bằng nước. Mặt nạ lột bỏ có chứa các polymer tổng hợp tương đối an toàn và hiệu quả. Một số mặt nạ có thể gây kích ứng da do đó lời khuyên là test thử ở cổ tay trong trước khi sử dụng cho mặt.

BẢO VỆ DA

Hình 3. Độ che phủ quang phổ tia cực tím của các thành phần chống nắng

Phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho làn da lão hóa là chống nắng. Tránh tiếp xúc với ánh nắng từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều và cẩn thận với “mặt trời ẩn”: UVA không được lọc bởi kính thủy tinh và cả UVA và UVB đều không được lọc bởi các đám mây. Con người thường bị cháy nắng vào những ngày nhiều mây, đặc biệt khi đi biển hoặc ở trong nước. Kem chống nắng cần được sử dụng thường xuyên và rộng rãi. Các kem chống nắng được phân loại là các chất lọc hữu cơ (hấp thu các photon của ánh sáng tia cực tím) hoặc các chất lọc vô cơ (phản xạ hoặc tán xạ tia cực tím). Như trong hình 3, một số chất chống nắng hữu cơ chỉ chặn tia UVB (p – aminobenzoic acid [PABA] và các este của nó padamate A và O, các cinnamate và các salicylate), các chất khác hấp thu chủ yếu tia UVB và một số tia UVA bước sóng thấp (octocrylene, các benzophenone, các anthranalide). Mexoryl XL hoặc SL chặn tia UVB cũng như phần lớn UVA. Kem chống nắng hấp thu tia UVA avobenzone có thể làm giảm tiếp xúc với tia UV nhưng các hợp chất ổn định (long não benzylidene và các dẫn xuất diphenyl cyanoecrylate, cả các chất lọc tia UVB) có thể được thêm vào một cách hiệu quả. Các chất lọc vô cơ với titan dioxid và kẽm oxid siêu mịn chặn hoàn toàn tia UVB, tương ứng chặn tia UVA bước sóng thấp và gần như tất cả tia UVA. Do đó kẽm oxid cung cấp sự bảo vệ tốt hơn titan oxid. Công nghệ mới với các hạt siêu mịn làm cho chúng không bị đục và có tính thẩm mỹ. Nồng độ và kích thước của các vi hạt xác định hiệu quả SPF. Khả năng chống nắng để ngăn chặn ban đỏ do tia UVB được đo theo chỉ số chống nắng tiêu chuẩn đã công nhận quốc tế (SPF), đây là tỷ lệ của phơi nhiễm với tia UVB ở da được bảo vệ so với da không được bảo vệ với kem chống nắng (SPF 30 có nghĩa là lượng tiếp xúc với UVB trong vòng 10 phút không có kem chống nắng tương đương với 10 phút x 30 = 5 giờ tiếp xúc có kem chống nắng). Chỉ số SPF ít nhất nên từ 25-30. Sau SPF, tiêu chí quan trọng thứ hai đối với kem chống nắng là khả năng chống nước cao, có nghĩa là nó hiệu quả khoảng 90 phút.

Bảng 1. Tiêu chí của kem chống nắng tốt

Bên cạnh đó cũng cần bảo vệ da với các chất chống oxi hóa và quần áo chống nắng, mũ và kính râm. Quần áo chống nắng được đánh giá qua chỉ số bảo vệ UV (UPF), được đo bằng lượng bức xạ UV truyền qua lớp vải. Loại vải có UPF 40-50 chỉ truyền 2,6% bức xạ hiệu quả về mặt sinh học, trái ngược với quần áo bình thường chỉ có UPF 4-10, cung cấp SPF tối đa là 30% nhưng thường chỉ có SPF khoảng 2 nếu ướt.

ĐIỀU TRỊ

Có một số phương pháp điều trị y khoa cho các mục đích chống lão hóa. Các phương pháp này gồm có acid retinoid, các hydroxy acid và các chất chống oxy hóa tại chỗ. Nhiều sản phẩm đã được quảng cáo nhưng hiệu quả của chúng vẫn chưa được chứng minh bởi các nghiên cứu lâm sàng mù đôi, có kiểm soát giả dược một cách nghiêm ngặt.

Các hydroxy acid

Các hydroxy acid (HA) đã được sử dụng qua nhiều thế kỷ. Các hydroxy acid được phân loại theo vị trí của nhóm hydroxyl gắn vào một phần acid: các acid α -hydroxy (AHAs) (glycolic acid, lactic acid, và citric acid), các acid β -hydroxy (BHAs) (tropic acid, salicylic acid [SA]- được gọi là BHA nhưng thực sự là một acid α –hydroxybenzoic, và thế hệ mới acid polyhydroxy (PHAs) (gluconolactone hoặc lactobionic acid – một thành phần hiện diện tự nhiên của da). Các AHA hoạt động nhanh chóng (trong vòng 2 tuần) để làm nhẵn mịn bề mặt da bằng cách giảm sự kết dính tế bào sừng biểu bì, đầu tiên ở mức độ trong cùng của lớp sừng (ngay trên lớp tế bào hạt). Sự phá hủy biểu bì do lão hóa ánh sáng được sửa chữa trong 14-16 tuần, dẫn đến lớp sừng mỏng hơn, dày lớp gai biểu bì, và giảm sự hình thành melanin. Sự gia tăng acid hyaluronic bên trong biểu bì cải thiện độ ẩm bề mặt bằng cách giữ nước. Một nghiên cứu đã chứng minh rằng chứng tróc lớp sừng dày ở biểu bì sau khi hoạt chất xâm nhập vào da làm gia tăng tổng hợp các glycosaminoglycan và gia tăng nguyên bào sợi, sản xuất collagen và elastin. Gia tăng 25% độ dày da được đo sau 6 tháng điều trị với 25% AHA mà không gây viêm. SA là duy nhất trong số các acid hydroxy thân dầu và đặc biệt gắn vào các lỗ nhờn do đó ức chế các thuộc tính làm dày sừng không chỉ làm nhẵn các nếp nhăn bề mặt mà còn làm giảm kích thước lỗ chân lông và ngăn chặn mụn. Là một chất tiêu sừng hiệu quả, SA hòa tan chất gắn kết gian bào bằng cách phá vỡ sự kết dính giữa các lớp tế bào sừng từ bề mặt trở xuống. SA có thể cũng kìm khuẩn trực tiếp.

Các PHA có một số ưu điểm. Chúng có trọng lượng phân tử lớn vì vậy chúng thâm nhập vào da từ từ và do đó ít kích ứng da hơn các AHA hay SA. Các PHA được đề nghị cho những bệnh nhân có da nhạy cảm, đỏ hoặc viêm da dị ứng. Chúng thậm chí có thể được dùng kết hợp với acid retinoic mà không gây kích ứng. Các PHA cũng giúp cải thiện độ ẩm của lớp sừng khi so sánh với các AHA. Các PHA có hoạt tính kháng viêm và chống oxy hóa, hơn nữa tăng cường sửa chữa lão hóa da do ánh sáng.

Ba yếu tố quan trọng xác định hiệu quả HA là:

  1. Loại acid hydroxy.
  2. Nồng độ: nồng độ càng cao, hiệu quả càng nhiều nhưng có thể kích ứng nhiều hơn. Nồng độ 8-12% các acid glycolic và lactic thường có giá trị kê toa. Những nồng độ cao được sử dụng cho thay da hóa học trung bình.
  3. pH (độ acid): lượng acid tự do về mặt sinh học xác định độ mạnh lâm sàng. Để hiệu quả, acid hydroxy phải có tính acid.

Các retinoid

Các retinoid là tiêu chuẩn vàng để cải thiện tình trạng lão hóa da. Acid retinoic (tretinoin) đã được sử dụng hơn 35 năm để điều trị mụn trứng cá. Vào cuối những năm 1980, sự cải thiện lâm sàng đáng kể các nếp nhăn và đốm lão hóa sau điều trị với tretinoin đã được ghi nhận. Tiếp xúc với bức xạ tia cực tím dẫn đến giảm biểu hiện của các receptor acid retinoic (RAR) và các receptor retinoic X (RXR) (đặc biệt là RAR-α and RXR-γ, 2 receptor hạt nhân lớn ở các tế bào keratin) với sự kích hoạt theo sau của các yếu tố phiên mã (AP-1 và NF-IF) làm gia tăng sự phát triển và kích hoạt các metaloproteinase phức (MMP) gây phá vỡ các protein phức ngoại bào. Bằng cách gắn vào các thụ thể này, các retinoid tại chỗ khôi phục lại biểu hiện, do đó cải thiện sự phá hủy do UV gây ra ở tất cả các cấp độ biểu bì và trung bì. Các retinoid gia tăng sự phát triển của biểu bì gây ra sự dày lên của biểu bì với sự gia tăng mật độ lớp sừng và sự lắng động của các glycosaminoglycan nội bào; với sự phát triển biểu bì, ức chế sự hình thành melanin quá mức và lột bỏ các tế bào keratin đầy sắc tố giúp loại bỏ tình trạng tăng sắc tố lốm đốm; và các retinoid trực tiếp gây ra sự tổng hợp collagen và giảm sự phá vỡ collagen bằng cách ức chế các MMP gây ra bởi tia UV, do đó giúp sửa chữa các nếp nhăn. Tretinoin tại chỗ cũng cải thiện quá trình lão hóa nội tại, thậm chí nhiều hơn ở da không tiếp xúc với nắng do với da lão hóa quang hóa. Sự gia tăng đáng kể độ dày của lớp biểu bì (với sự liên kết của biểu bì và trung bì nhấp nhô nhiều hơn) với các sợi elastin và các glycosaminoglycan đã được quan sát thấy. Trước đây, tretinoin tại chỗ đã được mặc nhiên là làm cho da nhạy cảm hơn khi tiếp xúc UV. Thật vậy, sự phân giải tình trạng dày sừng có thể cho phép nhiều tia UV xâm nhập sâu hơn nhưng sự ức chế các MMP (gây ra bởi tia UV mà làm phá vỡ collagen) dẫn đến ít phá hủy da khi tiếp xúc UV hơn khi được điều trị với tretinoin. Đôi khi, kích ứng (viêm da do retinoid) có thể xảy ra, đặc biệt khi mới bắt đầu điều trị. Điều này có thể được tránh bằng cách bắt đầu sử dụng ở nồng độ thấp (kem 0,025% thay vì kem 0,05% hoặc gel 0,01%), những công thức khác như gel microsphere, các công thức thế hệ mới, hoặc các retinoid khác nhau, và sử dụng ngắt quãng. Các bệnh nhân có da nhạy cảm nên bắt đầu với công thức dịu nhẹ, ban đầu áp dụng mỗi 3 ngày và gia tăng lên hàng ngày trong vài tuần hoặc vài tháng. Hầu hết sự cải thiện xảy ra ở năm đầu tiên, sự cải thiện được duy trì khi tiếp tục sử dụng, như đã được chứng minh bởi các nghiên cứu mô học lên tới 4 năm. Thế hệ thứ 2 của retinoid đã được chứng minh hiệu quả trong điều trị tình trạng hư hại da do ánh sáng. Kem retinaldehyde (0,05%) và kem retinol (1,6%) có thể so sánh với tretinoin về hiệu quả nhưng gây kích ứng nhiều hơn. Tazarotene (0,5% và 0,1%) có thể đem lại sự cải thiện nhanh hơn nhưng cũng kích ứng hơn. Adapalene ( kem và gel 0,1%) ít kích ứng hơn nhưng có lẽ hiệu quả ít hơn tretinoin.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa