CÁC TÁC CHẤT LÀM SÁNG/ LÀM TRẮNG DA TOÀN THÂN: BẰNG CHỨNG LÀ GÌ?

Màu da người là một trong những biến thể kiểu hình có thể nhận thấy nhất và được xác định chủ yếu bởi loại và số lượng melanin được tổng hợp trong các túi melanosome và kiểu phân bố túi melanosome ở trong các tế bào melanin. Như trong nhiều thế kỷ qua, làn da sáng luôn thu hút nhiều sự quan tâm, màu da đẹp và sáng là một biểu tượng của sự nổi bật. Tại Ấn độ, những quan điểm về màu da đã phát triển hơn 2000 năm và phản ánh những sự quan tâm về tầng lớp và giai cấp. Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ Châu Á luôn mong muốn một làn da trắng, do đó các sản phẩm làm trắng da là một nửa của ngành công nghiệp tỷ đô ngày nay đang tận dụng cơ hội để đáp ứng nhu cầu này. Làm trắng da là một trong những hình thức phổ biến của việc sửa đổi cơ thể có khả năng gây hại nhất trên thế giới.

Một loạt các tác nhân làm trắng da đã có sẵn trong thị trường da liễu và thẩm mỹ, và các thuốc mới đang tiếp tục được giới thiệu. Rất nhiều thông tin về các sản phẩm làm trắng tại chỗ nhưng các tác nhân làm trắng toàn thân đang dần trở nên phổ biến mà không có nhiều bằng chứng trong các tài liệu khoa học. Trong bài viết này, chúng tôi giải quyết các vấn đề liên quan đến việc sử dụng các tác nhân làm trắng da toàn thân.

Tổng quan về con đường tổng hợp melanin và vị trí hoạt động của chất làm trắng da toàn thân được sử dụng phổ biến nhất được mô tả trong hình dưới đây:

Hình con đường tổng hợp melanin và vị trí hoạt động của glutathion và cystein, thay đổi cân bằng về phía tổng hợp pheomelanin.

Các cơ chế ảnh hưởng cân bằng pheomelanin thành eumelanin phụ thuộc vào L-cystein, GSH và tyrosinase liên quan sự biểu hiện protein. Do đó, như quan sát trên hình, việc chuyển đổi từ tổng hợp eumelanin thành tổng hợp pheomelanin có thể bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi tỷ lệ giữa mức độ cystein và GSH. Sự tổng hợp pheomelanin xảy ra một cách ưu tiên dưới những điều kiện của nồng độ cao cysteine và hoạt động tyrosinase thấp.

GSH

Các tác nhân làm trắng da toàn thân được sử dụng phổ biến nhất là GSH sử dụng đơn độc hoặc kết hợp với các thành phần khác, cả công thức tiêm tĩnh mạch và đường uống. GSH là một chất chống oxy hóa được tổng hợp trong tất cả các tế bào động vật có vú từ 3 amino acid glutamate, cystein và glycine. Nó cũng có sẵn trong tự nhiên ở trong dưa hấu, bơ, bông cải xanh, rau bina và cà chua. GSH tồn tại trong các tế bào chủ yếu ở dạng khử (GSH) mà liên tục bị oxy hóa thành GSH dạng oxy hóa và kho dự trữ của nó được bổ sung bởi hoạt động của GSH reductase. GSH tham gia vào các quá trình sinh hóa khác đặc biệt có liên quan đến việc loại bỏ các gốc tự do và sự giải độc các hợp chất độc, nó đóng vai trò như coenzym và giúp vận chuyển các amino acid qua màng tế bào. Nồng độ GSH thấp liên quan đến nhiều bệnh lý và GSH đã được sử dụng để kiểm soát bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson, bệnh xơ cứng, viêm gan do rượu, xơ vữa động mạch, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, hội chứng mệt mỏi mãn tính. Nó đã được sử dụng phổ biến để chống lại chất độc thận và thần kinh liên quan tới hóa trị liệu cisplatin và đây là chỉ định được FDA phê duyệt đối với dạng tiêm tĩnh mạch của GSH. Vai trò của GSH như một chất làm trắng da được phát hiện tình cờ như là một tác dụng phụ liều cao của GSH. Điều này dẫn đến các nghiên cứu sâu rộng thiết lập vai trò trong việc tổng hợp melanin và việc sử dụng GSH gần đây như một tác nhân làm trắng da toàn thân.

GSH sử dụng hoạt tính của nó như một chất làm trắng da ở các mức độ tổng hợp melanin khác nhau gồm có:

  • Can thiệp vào sự chuyên chở tyrosinase tế bào.
  • Bất hoạt trực tiếp enzym tyrosinase bằng cách liên kết với đồng – chứa vị trí hoạt động của enzym.
  • Làm trung gian cho cơ chế chuyển đổi từ sản xuất eumelanin thành phaeomelanin bởi vì GSH là nguồn sinh lý học chính của cystein và sự gia tăng lượng cystein dẫn đến đổi sự tổng hợp eumelanin thành pheomelanin.
  • Làm bất hoạt các gốc tự do và các peroxid góp phần vào sự kích hoạt tyrosinase và sự hình thành melanin.
  • Điều chỉnh khả năng làm mất sắc tố của các tác nhân gây độc melanin.

GSH làm trắng da có sẵn ở cả viên nén và dạng tiêm. Khi uống, GSH được thủy phân bởi transferase gamma-glutamyl ở ruột và gan dẫn đến giảm sinh khả dụng. Ngay cả khi sử dụng ở liều lớn, nhận thấy rằng hầu hết GSH được hấp thu vẫn nằm trong các tế bào khoang ruột và chỉ những sự gia tăng GSH nhẹ và thoáng qua có thể được phát hiện trong hệ tuần hoàn chung. Như vậy, hiệu quả của GSH ngoại sinh bị gây trở ngại bởi tính không ổn định của nó khi đi qua các màng tế bào và sự thủy phân nhanh chóng của nó trong tuần hoàn bởi gamma-glutamyltranspeptidase được phát hiện trên các bề mặt ngoại bào của các tế bào. Ngược lại, GSH tiêm tĩnh mạch cung cấp liều rất cao trực tiếp vào hệ tuần hoàn, làm quá tải tuần hoàn ở thận.

GSH đường uống trong danh mục “nhìn chung được coi là an toàn” của FDA thường được đưa ra thị trường dạng thực phẩm bổ sung và do đó nó không cần phải được FDA hoặc Cục thực phẩm và dược phẩm (BFAD) phê duyệt. Không có quy định trong luật cho FDA phê duyệt các thực phẩm bổ sung một cách hiệu quả trước khi chúng đến với người tiêu dùng. Tuy nhiên, FDA đã cấm việc sử dụng dạng tiêm tĩnh mạch của GSH để làm trắng da do có một số tác dụng phụ phổ biến thường được báo cáo như phát ban da, hội chứng Stevens Johnson, hoạt tử biểu bì, rối loạn chức năng tuyến giáp, thận và đau bụng dữ dội.

Tính đến nay, chỉ có một nghiên cứu được xuất bản trong tài liệu tiếng Anh đánh giá tính an toàn và hiệu quả của GSH đường uống như là một chất làm trắng da. Đó là một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, 2 cánh tay, có kiểm soát giả dược được tiến hành trên 60 sinh viên y khoa ở Thái Lan. Nhận thấy GSH đường uống 500mg/ ngày trong 4 tuần làm trắng da đáng kể khi so với giả dược và đã quan sát thấy không có các tác dụng phụ đáng kể. Tuy nhiên, đã có nhiều thiếu sót trong nghiên cứu, nồng độ GSH huyết tương không đo được (bởi vì sinh khả dụng GSH đường uống thấp), thời gian nghiên cứu được giới hạn trong 4 tuần, không theo dõi để xác định khi các chỉ số melanin da trở về giá trị cơ bản ban đầu, các sinh viên y khoa đã được lựa chọn (người trẻ, những người có sức khỏe) và nghiên cứu được tiến hành trong suốt thời gian đại học của họ để đảm bảo rằng việc tiếp xúc với ánh nắng được giảm thiểu. Do đó, các kết quả có thể chỉ áp dụng cho người trẻ và những người châu Á khỏe mạnh.

Các chất hoạt hóa của GSH hoạt hóa nó ở liều 20 và 40mg/kg/cân nặng/ ngày được chia thành 2 liều với liều duy trì là 500mg/ ngày. Họ cho rằng tác dụng toàn thân từ từ sẽ được thấy từ 1-3 tháng ở da nâu trung bình, 3-6 tháng ở da nâu sậm, 6-12 tháng ở da sậm màu và 2 năm ở da rất sậm màu. Thuốc tiêm GSH được sử dụng ở liều 900mg hàng tuần bằng phương pháp tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp và các lần điều trị có thể được lặp lại 2-3 lần một tuần. Chúng được nhận thấy làm trắng da sau 2-3 tuần.

GSH cũng được kết hợp với nhiều tác nhân khác như vitamin C để gia tăng hấp thu của nó, N-acetyl cystein để gia tăng mức độ của nó, acid alpha lipoic và các chất chống oxy hóa khác như vitamin E và chiết xuất hạt nho. Một số chế phẩm uống có sự kết hợp gây nguy hiểm như monobenzone gây mất sắc tố không hồi phục và hydroquinon là một chất gây ung thư bị FDA cấm sử dụng.

L-cystein peptid

Một chất khác phát huy tác dụng làm trắng da là L-cystein peptid, được cho là mạnh gấp 3-5 lần GSH và được BFAD phê duyệt. Các nguồn L-cystein tự nhiên gồm có thịt gia cầm, sữa chua, lòng đỏ trứng, ớt đỏ, tỏi, hành tây, bông cải xanh, mầm Brussel, yến mạch và mầm lúa mì. L-cystein cùng với acid L-glutamic và glycin là tiền chất trong tổng hợp GSH peroxidase và nhận thấy rằng nồng độ cao L-cystein làm giảm hoạt động tyrosinase và sản xuất thêm pheomelanin bằng con đường cysteinyl dihydroxyphenylalanin (DOPA). Các DOPA cysteinyl có thể được hình thành theo 2 con đường: trực tiếp bằng cách bổ sung nucleophin vào DOPA quinone hoặc gián tiếp từ GSH DOPA bằng hoạt động của gamma-glutamyl transferase và peptidase. Do đó, L-cystein peptid được cho là một chất làm trắng da nhưng không có nhiều bằng chứng khoa học ủng hộ sử dụng theo chỉ định này.

Acid tranexamic

Acid tranexamic (trans-4-aminomethyl cyclohexane carboxylic acid), một chất ức chế plasmin, thường được sử dụng như một chất cầm máu nhờ vào hoạt tính chống tiêu fibrin, nó cũng được xem là một chất làm trắng da toàn thân đặc biệt khi sử dụng đường uống hoặc tiêm trong da để điều trị nám. Các tác động làm trắng da của acid tranexamic đã được phát hiện tình cờ khi nó được sử dụng trong điều trị xuất huyết dưới nhện do vỡ túi phình mạch não. Nó là một dẫn xuất tổng hợp của lysine và vai trò của nó trong điều trị nám được nghiên cứu lần đầu tiên bởi NiJor vào năm 1979, nhưng chỉ có dữ liệu hạn chế trong các tài liệu có liên quan đến nám. Plasmin là một protease tăng cường phóng thích acid arachidonic nội bào, một tiền chất của prostanoid và cũng làm tăng hormon kích thích tế bào alpha melanin (α-MSH). Cả acid arachidonic và α-MSH có thể kích hoạt sự tổng hợp melanin bằng các tế bào melanin. Acid tranexamic với hoạt tính kháng plasmin làm cạn kiệt nguồn tế bào keratin của acid arachinoic liên quan đến sự tổng hợp melanin gây ra do tia cực tím.

Nó đã được sử dụng ở liều thấp 250mg hai lần một ngày ít nhất 3 tháng cho điều trị nám và nhận thấy hiệu quả. Tuy nhiên, nó không an toàn để sử dụng nó trong một thời gian dài do đặc tính chống xuất huyết dẫn đến các tác dụng phụ như huyết khối tĩnh mạch, nhồi máu cơ tim, các vấn đề liên quan đến mạch máu não và tắc mạch phổi. Nó được chống chỉ định ở những bệnh nhân có khả năng nhìn màu bị khiếm khuyết, tình trạng đông máu nội mạch và quá mẫn với acid tranexamic. Tuy nhiên, không có dữ liệu khoa học chứng minh vai trò của acid tranexamic là một chất làm trắng da. Nó thậm chí còn được quảng cáo là tiêm tĩnh mạch để làm trắng da ở liều 500mg/ tuần khoảng 1-2 tháng và liều duy trì 500mg/ tháng. Acid tranexamic đã được nhận thấy là tạo ra tác dụng hiệp đồng tốt khi kết hợp với acid ascorbic hoặc các dẫn chất của nó là L-cystein.

Các tác nhân khác

Bên cạnh những chất này, liều lớn vitamin C, acid hyaluronic, yếu tố tăng trưởng biểu bì và sự kết hợp của nhiều chiết xuất thiên nhiên (chiết xuất collagen tự nhiên, chiết xuất bearberry, chiết xuất glycyrrhiza, Lycopen, Kelp, chiết xuất lá oliu, táo gai, táo tàu, cây hắc mai biển, tinh bột, hạt coix, chiết xuất ngọc trai…) cũng được cho là làm trắng da ở dạng các thực phẩm bổ sung mà không có bằng chứng khoa học.

Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu trên động vật và các nghiên cứu invitro chứng minh vai trò của các chiết xuất tự nhiên như polyphenol trà xanh được chiếu xạ, chiết xuất giàu proanthocyanidin từ hạt nho, chiết xuất lựu giàu acid ellagic và chiết xuất coumarin từ cây bạch chỉ trong việc ức chế tổng hợp melanin dẫn đến làm trắng da. Các procyanidin (pycnogenol, chiết xuất hạt nho) và polypodium leucotomo đã được nhận thấy hiệu quả và an toàn trong điều trị nám và ngăn ngừa những thay đổi sắc tố gây ra do tia UVA. Nhưng không có thử nghiệm chứng minh hiệu quả của chúng trong điều trị sắc tố sau viêm hoặc cải thiện màu da tổng thể.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa