CHỨNG TĂNG SẮC TỐ SAU VIÊM

Tăng sắc tố sau viêm (PIH) là một vấn đề phổ biến và tiêu biểu gặp phải trong các dạng rối loạn da khác nhau. Sự dư thừa sắc tố được cho là kết quả của quá trình bệnh trước đó gây ảnh hưởng đến da như: nhiễm trùng, phản ứng dị ứng, tổn thương cơ học, phản ứng của thuốc, phát ban do ánh sáng, chấn thương (như bỏng) và các bệnh viêm (như bệnh Lichen phẳng, lupus ban đỏ, viêm da dị ứng).

PIH cũng có thể gặp phải sau khi điều trị bằng một số thiết bị điện từ như: siêu âm, tần số vô tuyến, laser, diod phát quang và ánh sáng nhìn thấy cũng như siêu mài mòn da thứ phát. Thông thường, tăng sắc tố sau viêm biểu hiện nặng nhất ở bệnh nhân có lớp tế bào nền ở biểu bì da bị hư tổn, chẳng hạn như da bị lupus ban đỏ hoặc bệnh da Lichen.

Ảnh của một phụ nữ người Mỹ gốc Phi ở tuổi 42 với các vết tăng sắc tố sau viêm ở bên trái khuôn mặt do mụn excoriée để lại

Tăng sắc tố sau viêm là do rối loạn sắc tố ở biểu bì hoặc trung bì. Đáp ứng viêm biểu bì (hay còn gọi là viêm da) dẫn đến giải phóng acid arachidonic và sau đó oxy hóa thành prostaglandin, leukotrien và các sản phẩm khác. Các sản phẩm của quá trình viêm làm thay đổi hoạt động của cả tế bào miễn dịch và tế bào sinh sắc tố.SINH LÝ BỆNH

Cụ thể, các sản phẩm của quá trình viêm kích thích tế bào sinh sắc tố biểu bì, làm cho chúng tăng tổng hợp melanin và sau đó tăng di chuyển sắc tố tới các tế bào keratin xung quanh. Việc tăng kích thích và di chuyển các hạt melanin dẫn đến chứng tăng sắc tố biểu bì.

Ngược lại, bệnh sắc tố trung bì xảy ra khi quá trình viêm phá vỡ lớp tế bào đáy, làm cho sắc tố melanin được giải phóng và sau đó bị giữ lại bởi các đại thực bào trong lớp nhú da, cũng được gọi là chứng không kiểm soát được sắc tố.

Các yếu tố tăng trưởng trong hình thành melanin có nguồn gốc từ nguyên bào sợi dễ thấy trong các tương tác trung mô giúp điều chỉnh chức năng tế bào biểu bì sinh sắc tố.

DỊCH TỄ HỌC

Tần số

Ở Hoa Kỳ, tăng sắc tố sau viêm là đáp ứng phổ biến ở da, nhưng nó phổ biến hơn ở những người có làn da sẫm màu (kiểu da Fitzpatrick III tới VI). Tăng sắc tố sau viêm có thể gặp phải ở bất kỳ quá trình viêm nào của da, tuy nhiên, nó dễ gặp phải hơn ở viêm da do ánh sáng và nghiêm trọng hơn ở viêm da lichen.

Trên thế giới, tăng sắc tố sau viêm là phản ứng viêm phổ biến của da, đặc biệt ở da sẫm màu. Mặc dù màu da sáng hơn, nhưng một số người Châu Á (từ các quốc gia Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc) cũng dễ phát triển PIH khi gặp các yếu tố kích thích.

Chủng tộc

Tăng sắc tố sau viêm có thể xảy ra ở tất cả mọi chủng tộc, nhưng nó phổ biến hơn ở người da đen bao gồm: người Châu Mỹ hoặc Châu Á gốc Phi.

Giới tính

Tăng sắc tố sau viêm xảy ra ở cả nam và nữ, nó không phụ thuộc vào giới tính.

Tuổi

PIH có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào.

NGUYÊN NHÂN

Tăng sắc tố sau viêm xảy ra bởi các quá trình bệnh khác nhau mà có ảnh hưởng đến da. Các quá trình này bao gồm: các phản ứng dị ứng, nhiễm trùng, chấn thương và nhạy cảm với ánh nắng mặt trời. Laser Fractional cũng thỉnh thoảng gây tăng sắc tố sau viêm.

Các bệnh viêm thông thường dẫn đến tăng sắc tố sau viêm bao gồm: mụn, bệnh lichen, lupus ban đỏ hệ thống, viêm da mạn tính và u lympho T ở da.

Hơn nữa, các tổn thương của tăng sắc tố sau viêm có thể nặng hơn khi tiếp xúc với tia UV và các hóa chất khác như: tetracyclin, bleomycin, doxorubicin, 5-fluorouracil, busulfan, arsen, bạc, vàng, thuốc trị sốt rét, hormon và clofazimin.

Việc điều trị tăng sắc tố sau viêm (PIH) có xu hướng kéo dài, thường mất 6 – 12 tháng để đạt được kết quả như mong đợi. Việc sử dụng kem chống nắng phổ rộng hàng ngày (SPF 15 hoặc cao hơn) là một phần thiết yếu trong bất kỳ phác đồ điều trị nào.

Một loạt các điều trị tại chỗ đã được sử dụng để điều trị tăng sắc tố sau viêm với mức độ thành công khác nhau. Các tác nhân này bao gồm: hydroquinon, kem tretinoin, corticosteroid, acid glycolic (GA) và acid azelaic. Việc làm sáng các vùng da tăng sắc tố có thể đạt được với một trong số những tác nhân này, nhưng việc kết hợp kem hoặc gel dùng tại chỗ với thay da hóa học và kem chống nắng là cần thiết để cải thiện hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, chúng chỉ có hiệu quả trên tăng sắc tố ở lớp biểu bì. Trong một nghiên cứu, sự kết hợp thay da với acid salicylic và dùng tretinoin tại chỗ cho hiệu quả tốt hơn điều trị riêng lẻ. Nghiên cứu khác cho thấy kết hợp thay da bằng acid glycolic với công thức Kligman gồm hydroquinon 2%, tretinoin 0,05% và hydrocortison 2% mang lại hiệu quả cao cho tăng sắc tố sau viêm trên mặt ở bệnh nhân có làn da sậm màu.

Tretinoin 0,1% dùng tại chỗ cũng có hiệu quả trong điều trị tăng sắc tố sau viêm. Thay da với GA, kết hợp với tretinoin và hydroquinon là một phương pháp hiệu quả để điều trị PIH ở bệnh nhân có làn da sậm màu. Tất cả gel acid retinoic dạng trans 0,1-0,4% có thể áp dụng kết hợp với thuốc mỡ hydroquinon – lactic acid như chất tẩy trắng. Sau khi vấn đề sắc tố được cải thiện, corticosteroid và hydroquinon nên được áp dụng tại chỗ để thúc đẩy nhanh việc chữa lành vết thương. Sự kết hợp các tác nhân trị liệu khác nhau này được chứng minh là có lợi, đặc trên trên vùng mặt.

Acid azelaic dùng tại chỗ đã được chấp thuận trong điều trị mụn trứng cá, cũng hữu ích trong điều trị PIH. Ở những bệnh nhân bị mụn trứng cá và có xu hướng tăng sắc tố sau viêm, acid azelaic là một lựa chọn tốt. Kem tazarotene 0,1% cũng thể hiện hiệu quả tốt trong điều trị rối loạn sắc tố có liên quan đến lão hóa quang hóa và mụn trứng cá, đặc biệt ở bệnh nhân có tone màu da tối.

Việc điều trị sớm tình trạng mụn ở những bệnh nhân có làn da sẫm màu giúp giảm thiểu nguy cơ bất thường về sắc tố.

Các phương thức điều trị khác bao gồm sử dụng acid trichloroacetic và liệu pháp làm lạnh nhẹ với ni-tơ lỏng. Mỗi phương pháp phải được áp dụng cẩn thận để tránh hoại tử hoặc phồng rộp vùng da điều trị. Cần tránh 2 phương pháp điều trị này ở bệnh nhân da sậm màu vì nguy cơ mất sắc tố và sẹo vĩnh viễn.

Retinaldehyd (RAL) cũng cho thấy hoạt tính làm giảm sắc tố và GA được biết làm giảm sự dư thừa sắc tố do tổn thương và quá trình tái tạo da. RAL 0,1% kết hợp GA 6% trong điều trị mụn trứng cá và tăng sắc tố sau viêm đã được chứng minh hiệu quả. Thuốc ức chế peroxidase (methimazole) một chất ức chế không gây độc trong sản xuất melanin là một tác nhân có thể được dùng trong điều trị tại chỗ.

Hiệu quả và độ an toàn khi kết hợp thay da bằng GA, kem acid azelaic tại chỗ và gel adapalene trong điều trị nám da cứng đầu được thử nghiệm ở 28 bệnh nhân ngẫu nhiên trong 20 tuần. Những người này được thay da với GA kết hợp với kem acid azelaic 20% và gel adapalen 0,1% (4 lần/ngày, áp dụng vào ban đêm). Sự kết hợp này mang lại hiệu quả và độ an toàn cao trong nám da cứng đầu. Choi và cộng sự cho biết Lepidium apetalum là một chất tiềm năng trong ức chế tăng sắc tố do tia UV.

Các tác nhân làm giảm sắc tố còn bao gồm nhiều dạng khác nhau. Chiết xuất lá Aloe vera và thành phần hoạt tính aloin của nó cũng được xem là tác nhân làm giảm sắc tố.

Bệnh nhân không nên điều trị với monobenzyl eter do nguy cơ mất sắc tố da.

Bên cạnh đó, công nghệ laser vi phân cũng được sử dụng để điều trị tăng sắc tố sau viêm hoặc kết hợp với laser CO2 bóc tách để tái tạo bề mặt da. Laser được chứng minh có thể giải quyết được các vấn đề lắng đọng sắc tố ở da. Laser Q-switched Nd:YAG bước sóng 1064nm với tần số thấp mang lại hiệu quả cao ở bệnh nhân Châu Á.

Các tác nhân điều trị tại chỗ bao gồm: hydroquinon, acid azelaic, corticosteroid, kem tretinoin, GA và acid trichloroacetic. Các sản phẩm làm trắng da được sử dụng trong điều trị lâm sàng của tăng sắc tố sau viêm. Chúng hoạt động trên nhiều mức độ sản xuất melanin khác nhau trong da, một số là chất ức chế cạnh tranh của tyrosinase, trong khi các chất khác ức chế tăng trưởng của enzym này hoặc vận chuyển melanosome từ tế bào sinh sắc tố đến các tế bào keratin xung quanh. Các sản phẩm đậu nành có chứa serin – chất ức chế protease như một lựa chọn để điều trị chứng tăng sắc tố. Tăng sắc tố sau viêm cũng được điều trị bằng vitamin C với mặt nạ điện chuyển ion toàn bộ khuôn mặt và acid mandelic/malic trong chăm sóc da. Chiết xuất từ cây Polypodium leucotomos dùng đường uống có tác dụng bổ trợ trong điều trị PIH. Kem chống nắng phổ rộng là một phần không thể tách rời của bất kỳ phác đồ điều trị nào.

Winhoven và cộng sự đã báo cáo rằng điều trị thành công với isotretinoin đường uống ở một bệnh nhân Châu Á. Liệu pháp kết hợp laser ruby Q-switched và tẩy da bằng tretinoin và hydroquinon có thể được sử dụng cho tăng sắc tố vùng quanh mắt ở một số trường hợp. Hiệu quả và độ an toàn của retinoid và acid azelaic ở những người có làn da sẫm màu đã được chứng minh.

Tác nhân làm giảm sắc tố: những chất này được dùng để tẩy trắng dần dần vùng da bị sắc tố.

Hydroquinon

Hydroquinon (1,4-benzenediol) là một chất ức chế quá trình trao đổi chất của tế bào sinh sắc tố, đặc biệt là quá trình oxy hóa enzym của tyrosin thành 3,4 -dihydroxyphenylamin. Việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời làm đảo ngược các hiệu ứng này và làm sắc tố trở lại.

Tác nhân trị mụn trứng cá: nhóm này có đặc tính kháng khuẩn và comedotylic, một số còn có tác động làm trắng.

Acid azelaic

Acid azelaic có tác động tẩy trắng trên da. Ngoài ra, nó còn có đặc tính kháng khuẩn.

Tác nhân tiêu sừng: những chất này làm mềm lớp biểu mô và sau đó làm chúng bị bong tróc ra khỏi da.

Acid trichloroacetic

Acid trichloroacetic là một chất ăn mòn mạnh, hủy diệt mô và keratin. Mặc dù nó có tác động ăn mòn, nhưng ít gây kích ứng và độc tính hơn các tác nhân trong cùng nhóm.

Tác nhân giống Retinoid: Retinoid làm giảm sự kết dính của tế bào keratin tăng sinh bất thường và điều chỉnh các tế bào keratin khác biệt này.

Tretinoin

Tretinoin ức chế hình thành vi còi mụn và làm giảm thương tổn. Nó giúp cho các tế bào keratin trong nang bã nhờn giảm kết dính và dễ bị loại bỏ. Tretinoin dùng tại chỗ như kem 0,025%, 0,05% và 0,1%; gel 0,01% và 0,025%.

Corticosteroid: những thuốc này có đặc tính kháng viêm và gây ra các tác động chuyển hóa khác nhau. Corticosteroid làm thay đổi đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với các tác nhân kích thích.

Hydrocortison

Hydrocortison là một dẫn xuất adrenocorticosteroid thích hợp để sử dụng trên da hoặc bên ngoài màng nhầy. Nó có tác động mineralcorticoid và glucocorticoid, dẫn đến hoạt tính kháng viêm.

Desonide

Desonide kích thích sự tổng hợp các enzym làm giảm quá trình viêm. Nó ức chế hoạt động phân bào và gây co mạch.

Betamethasone

Betamethasone giảm viêm bằng cách ức chế sự di chuyển của bạch cầu đa nhân và đảo ngược sự tăng tính thấm mao mạch

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa