CÔNG NGHỆ TRIỆT LÔNG BẰNG LASER

Thành công trong công nghệ triệt lông bằng laser được đánh giá thông qua việc loại bỏ lông vĩnh viễn hoặc về sự phát triển chậm lại của nang lông một cách đáng kể.

Lịch sử hình thành

Goldman và cộng sự lần đầu tiên mô tả về Ruby Laser đối với màu sắc nang lông năm 1963. Năm 1983, Oshiro và Maruyama ghi nhận sự rụng lông sau khi điều trị bằng Ruby Laser. Tuy nhiên, nang lông bị ảnh hưởng và lớp biểu bì tổn thương nghiêm trọng.

Lý thuyết ly giải quang nhiệt chọn lọc mà Anderson và Parrish phát triển năm 1983 dựa trên laser có bước sóng đặc biệt và thời gian xung của ánh sáng để nhắm vào một chromophore cụ thể. Bằng cách áp dụng nguyên lý này, mục tiêu sẽ bị phá hủy một cách chọn lọc để bảo vệ các mô xung quanh.

Sử dụng laser Q-switched Nd:YAG là laser điều trị đầu tiên trong việc loại bỏ lông được FDA chấp thuận. Phương pháp này ban đầu làm chậm lại sự tái phát triển khoảng 3 tháng mà không triệt lông vĩnh viễn.

Năm 1996, Grossman và cộng sự đã sử dụng một loại Ruby Laser thông thường và báo cáo ứng dụng đầu tiên của nguyên lý Anderson và Parrish trong triệt lông. Năm 1998, Dierickx và cộng sự công bố báo cáo của họ về một nghiên cứu tiếp theo 2 năm trong loại bỏ lông lâu dài, vĩnh viễn với laser này.

Laser triệt lông và các nguồn sáng

Kể từ đó, thị trường tràn ngập với nhiều loại laser tẩy lông và các nguồn sáng.

Các hệ thống laser ban đầu, chẳng hạn như Q-switched Nd:YAG (1064 nm, Soft Light system; Thermolase Corp, San Diego, CA) đã sử dụng một chất tạo treo của dầu khoáng carbon để xâm nhập vào nang lông và hoạt động như một chất hấp thụ năng lượng chromophore.

Một bộ lọc quang đèn chớp xenon (Epi Light, ESC Luxar; Energy Systems Corp, Needham, MA) sử dụng các bộ lọc để chọn bước sóng của đèn ở 690 nm, cho phép ánh sáng ở trên bước sóng này đi qua để ảnh hưởng đến tóc.

Laser xung dài (EpiLaser 694 nm, Palomar Technologies, Lexington, MA; EpiTouch, Sharplan Laser, Allendale, NJ) sử dụng nguyên tắc chọn lọc nhiệt, trong đó melanin hoạt động như chromophore đích.

Laser alexandrite xung dài (PhotoGenica LPIR 755 nm; Cynosure Inc, Chelmsford, MA) dựa trên nguyên tắc chọn lọc nhiệt và nhắm mục tiêu melanin trong nang lông. Bằng cách này, lớp biểu bì được làm mát hiệu quả trong khi melanin ở nang lông bị đốt nóng.

Coherent (Santa Clara, CA) và Palomar (Lexington, MA) đã giới thiệu LightSheer, một laser diod hoạt động ở 800 nm có thời lượng xung là 30 ms. Công nghệ này giảm thiểu kích thước của laser bằng cách thay thế ống laser ở vị trí của hệ mạch vi điện tử diod trạng thái rắn.

Hầu hết các cải tiến kỹ thuật trong thiết bị laser đã được gia tăng về mặt nâng cao hiệu quả và giảm các tác dụng phụ không mong muốn. Một số mô hình mới kết hợp các phương pháp dựa trên ánh sáng và nhiệt bằng cách sử dụng năng lượng tần số vô tuyến (RF), những điều này dựa trên lý thuyết rằng các vùng bị đốt nóng có thể được làm nóng hơn mà không ảnh hưởng đến vùng da xung quanh.

Chống chỉ định

Để laser có hiệu quả, màu lông phải tối hơn màu da xung quanh. Nếu không, việc điều trị sẽ không có hiệu quả và các biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra. Bệnh nhân với loại da Fitzpatrick V hoặc VI không thích hợp cho phương pháp này, ngay cả những bệnh nhân có loại da III và IV cũng có nguy cơ cao. Nhưng với công nghệ mới, hầu hết bệnh nhân đều có thể được điều trị mặc dù vẫn phải cần thận trọng.

Gần đây, Aldraibi và cộng sự đã xem xét sử dụng corticosteroid điều trị tại chỗ để giảm thiểu các phản ứng phụ khi điều trị các loại da IV-VI với một hệ thống laser Alexandrite. Nghiên cứu của họ cho thấy việc sử dụng liệu pháp corticosteroid tại chỗ dường như giúp giảm tình trạng ban đỏ, phù nề cũng như tăng sắc tố một cách tối thiểu sau điều trị. Nhưng nó vẫn kém an toàn cho da loại VI trong nghiên cứu này.

Cuối cùng, rám nắng rõ ràng là một chống chỉ định trước hoặc trong khi điều trị bởi vì điều này làm tối các sắc tố của vùng da xung quanh nang lông.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa