ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC VỚI TÌNH TRẠNG RỤNG TÓC

Giới thiệu

Hai phương pháp điều trị rụng tóc được FDA chấp thuận là minidoxil đường thoa và finasteride đường uống. Ngoài ra, các thành phần đối kháng thụ thể androgen như spironolactone và cyproterone acetate đặc biệt hiệu quả với nữ giới. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả của dutasteride, một hình thức kết hợp giữa enzyme ức chế 5 alpha-reductase tuýp 1 và tuýp 2 và yếu tố tăng trưởng nội mô. Minoxidil và finasteride là đối tượng nghiên cứu gần đây, khảo sát hiệu quả của những thành phần trên ở nồng độ cao hơn (15% minoxidil và 1,25 mg finasteride). Ngoài ra, một số thành phần có nguồn gốc thảo dược được sử dụng như một biện pháp hỗ trợ như: dầu gội hay các sản phẩm vệ sinh da đầu. Các biện pháp nhằm tăng cường tưới máu da đầu như Laser cũng thường được áp dụng cho các bệnh nhân rụng tóc.

Các thành phần sử dụng trong điều trị chứng rụng tóc do rối loạn androgen dựa trên cơ chế: tăng cường đáp ứng sinh học và ức chế androgen.

Tăng cường đáp ứng sinh học

Việc kiểm soát các đáp ứng sinh học có chức năng kiểm soát tốc độ tăng trưởng nang tóc, nguyên phân, ức chế miễn dịch, cơ chế dãn mạch, các yếu tố tăng trưởng liên quan, quy định sự biệt hóa tế bào.

Ức chế hoạt động androgen gồm 2 nhóm: ức chế 5-alpha reductase (finasteride) và đối kháng thụ thể androgen (spironolactone và cyproterone acetate).

Thay đổi đáp ứng sinh học

Minoxidil

Minoxidil là một dẫn chất của piperidinopyrimidine, được sử dụng ban đầu như một thuốc chống tăng huyết áp, với tác dụng phụ là rậm lông. FDA đã chính thức chấp thuận tác dụng điều trị rụng tóc của minoxidil mặc dù cơ chế tác dụng của thuốc vẫn chưa rõ ràng. Nhiều giả thuyết cho rằng hoạt chất tác động thông qua thay đổi tính thấm kênh kali, cơ chế nguyên phân của keratinocyte biểu bì, tăng tưới máu cục bộ. Nhiều nghiên cứu trên diện rộng, đa trung tâm, mù đôi khẳng định hiệu quả điều trị của minoxidil ở nồng độ 2% và 3%, tác dụng tốt hơn ở nồng độ 5%. Trong khi những nghiên cứu khác lại cho rằng minoxidil chỉ có hiệu quả mọc tóc trên 10% nam giới và 30% nam giới giảm rụng tóc. Hiệu quả tốt nhất trong vòng 1 năm đầu tiên điều trị và giảm dần ở giai đoạn sau. Ở nữ giới, minoxidil giúp giảm rụng tóc trên 50% bệnh nhân, tỷ lệ tái phát là 13%. Ở cả hai giới, việc ngưng thuốc khiến tình trạng rụng tóc tái diễn trong vòng 6 tháng sau đó. Minoxidil còn có tác dụng rút ngắn giai đoạn thoái hóa nang tóc, thúc đẩy giai đoạn tăng trưởng nang tóc, nhưng không mang lại hiệu quả trên toàn bộ da đầu. Kết hợp minoxidil với tretinoin (nồng độ tối thiểu là 0,025%) giúp tăng cường hấp thu minoxidil. Ở nồng độ 7,5%, bệnh nhân thường có triệu chứng kích ứng da đầu mà không có tác dụng phụ trên toàn thân. Nữ giới đôi khi xuất hiện triệu chứng rậm lông mặt, triệu chứng mang tính tạm thời và không cần can thiệp điều trị.

Ức chế thụ thể androgen

Finasteride (ức chế enzyme 5 alpha-reductase)

Finasteride được FDA chấp thuận trong điều trị rụng tóc do rối loạn androgen vào năm 1997. Finasteride là một steroid ức chế enzyme 5-alpha-reductase tuýp 2 (có tác dụng chuyển đổi testosterol thành adrogen mạnh hơn cả DHT). 5 alpha-reductase tuýp 2 được tìm thấy nhiều trong nang tóc và bộ phận sinh dục trong khi 5 alpha-reductase tuýp 1 có mặt ở khắp các cơ quan trong cơ thể như tuyến bã nhờn, tế bào sừng, tuyến mồ hôi và nhú bì. Việc ức chế chọn lọc 5 alpha-reductase tuýp 2 giúp giảm tác động của DHT lên nang tóc mà không ảnh hưởng đến nồng độ testosterol. DHT không đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành đặc tính sinh dục nam. Trong một nghiên cứu quy mô lớn, đa trung tâm đã chứng minh rằng: 83% bệnh nhân được điều trị với finesteride ổn định tình trạng rụng tóc trong khi 72% đối tượng thuộc nhóm chứng không có dấu hiệu cải thiện bệnh rụng tóc. Ngoài ra, 66% bệnh nhân được điều trị có dấu hiệu mọc tóc trở lại trong thời gian điều hơn 1 năm. Khi ngưng sử dụng thuốc, phần tóc mọc mới bị rụng trở lại. Một nghiên cứu khác kéo dài 5 năm cho thấy sự cải thiện (khác biệt có ý nghĩa thống kê) trên những bệnh nhân điều trị lâu dài với finasteride với nhóm chứng (nhóm này có tiến triển càng xấu trong thời gian càng dài không can thiệp điều trị). Một nghiên cứu nhỏ hơn tiến hành trên 9 cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy lợi ích của finasteride trong điều trị rụng tóc so với nhóm dùng giả dược. Với liều uống 1mg, finasteride có tác dụng tối ưu cho quá trình tăng trưởng tóc. Một nghiên cứu khác cho thấy phụ nữ đã mãn kinh sau 1 năm không thu được lợi ích trong việc sử dụng finasteride trong việc điều trị rụng tóc.

Suy giảm chức năng sinh dục giữa nhóm bệnh và nhóm chứng là 4,2% so với 2,2% . Triệu chứng mất đi khi bệnh nhân ngưng thuốc. Finasteide không được sử dụng cho phụ nữ mang thai vì có thể gây bất thường phát triển giới tính ở bé trai.

Spironolacton

Cũng giống như cyproterone acetate, spironolactone có khả năng chẹn thụ thể androgen. Những thuốc chẹn androgen nên chống chỉ định với nam giới. Spironolactone đường uống có tác dụng đối kháng aldosterol, cạnh tranh ức chế thụ thể androgen, và cản trở sinh tổng hợp androgen tuyến thượng thận mặc dù tác dụng này khá yếu. Đã có vài thử nghiệm lâm sàng chứng minh tác động tích cực của spironolacton trong điều trị rụng tóc những vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để làm rõ tác dụng trên. Spironolacton gây rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, tăng kali máu. Hoạt chất này không được sử dụng cho phụ nữ mang thai do nguy cơ phát triển giới tính bất thường ở trẻ nam.

Cyproterone Acetate

Cyproterone acetate, một chất đối kháng thụ thể androgen và progestin, chỉ nên được sử dụng ở phụ nữ, có những nguy cơ nhất định trên bộ máy sinh sản của nữ giới như kinh nguyệt không đều, tăng cân, đau ngực, trầm cảm, buồn nôn và suy giảm chức năng sinh dục. Cyproterone Acetate hiệu quả trên điều trị rậm lông và mụn trứng cá. Chống chỉ định cho phụ nữ mang thai và cho con bú.

Dutasteride

Tương tự như finasteride, dutasteride có khả năng ức chế 5-alpha-reductase mạnh, nhưng không có tính chọn lọc. Đối với nam giới chỉ có 5-alpha-reductase tuýp 1, họ có dấu hiệu rụng tóc khi sử dụng testosterol. Dutasteride có khả năng ức chế 5-alpha-reductase tuýp 2 gấp 3 lần so với finasteride. Thử nghiệm trên chó và chuột cho thấy sự suy giảm nồng độ DHT khi sử dụng dutasteride cao hơn với finasteride. Dutasteride được FDA chấp thuận trong điều trị phì đại tuyến tiền liệt. Thử nghiệm tiền lâm sàng cho thấy kết quả khả quan của dutasteride trong điều trị rụng tóc, nhưng pha 3 của thử nghiệm vẫn chưa được tiến hành.

Yếu tố tăng trưởng nội mạch (Vascular Endothelial Growth Factor)

Yếu tố tăng trưởng nội mô (VEGF) là một cytokine có tác dụng kích thích hình thành mạch máu nội mô. VEGF lúc đầu được ứng dụng trong việc tân tạo và chữa lành mô tổn thương, bệnh vẩy nến. VEGF đóng vai trò quan trọng trong chu trình phát triển của sợi tóc đặc biệt trong giai đoạn anagenic (giai đoạn tăng trưởng sợi tóc). Trong những con chuột được tiến hành chuyển đổi gen VEGF thì giai đoạn tăng trưởng dài hơn giai đoạn thoái hóa so với những con không được chuyển đổi. VEGF không trực tiếp tác động làm tăng trưởng tóc mà thông qua cơ chế tăng tưới máu nang tóc. VEGF còn có khả năng kích thích nang trứng. Tác dụng mọc tóc của minoxidil một phần thông qua cơ chế điều hòa tăng VEGF. VEGF vẫn chưa được nghiên cứu lâm sàng đầy đủ.

Nitroxide, TEMPOL

Nitroxide với biệt dược TEMPOL (4-hydroxy-2,2,6,6-tetramethylpiperidine-l-oxyl) có khả năng chống lại tác động của superoxide, hydrogen peroxide, tia X, vốn là những tác nhân gây độc tế bào. Tempol thoa lên da đầu chuột lang được chiếu bức xạ cho thấy tác dụng chống rụng lông và tăng khả năng phục hồi cho nang lông. Mặc dù Tempol đã được FDA phê duyệt như một sản phẩm chống rụng tóc cho bệnh nhân ung thư nhưng những tác dụng trên tình trạng rụng tóc do androgen cần được kiểm chứng qua thử nghiệm lâm sàng.

Thảo dược thiên nhiên trị rụng tóc

Giới khoa học phương Tây luôn có thái độ nghi nghờ đối với những liệu pháp điều trị rụng tóc từ thảo dược của phương Đông. Nguyên nhân do nền y học phương đông trong vấn đề điều trị rụng tóc vẫn còn thiếu chứng cứ khoa học thuyết phục. Tuy nhiên, sau đây chúng tôi sẽ liệt kê những loại thảo dươc được ứng dụng lâu đời để điều trị rụng tóc:

Quả cọ lùn (Serenoa repens)

Chiết xuất từ quả cọ lùn có khả năng ức chế 5-alpha reductase, hạn chế khả năng gắn kết DHT vào receptor của androgen tại nang tóc. Một nghiên cứu mù đôi tại châu Âu, nhóm chứng được dùng giả dược chứng minh hiệu quả của chiết xuất trong điều trị phì đại tuyến tiền liệt (cơ chế bệnh sinh tương tự như rụng tóc). Khả năng ức chế 5-alpha reductase của dịch chiết yếu hơn finasteride. Theo nghiên cứu của Ortiz R và Carlisi DJ, việc sử dụng dịch chiết quả cọ lụn cả đường thoa và giảm liều đường uống cho tác dụng tương tự ở nồng độ thấp hơn so với khi chỉ sử dụng đường uống và giảm được tác dụng phụ hệ thống.

Vitamin

Sự thiếu hụt vitamin có liên quan đến cơ chế rụng tóc. Bicotin thuộc nhóm vitamin tan trong nước có nồng độ trong máu thấp ở những bệnh nhân rụng tóc. Ở những đối tượng này còn xuất hiện tình trạng viêm da có vảy. Khi được bổ sung biotin, tình trạng rụng tóc được cải thiện. Những rối loạn tổng hợp và chuyển hóa biotin, thiếu hụt holocarboxylase cũng dẫn đến tình trạng rụng tóc. Tuy nhiên, tác dụng chống rụng tóc do nguyên nhân androgen cần được chứng minh qua thử nghiệm lâm sàng để có được những bằng chứng thuyết phục hơn. Ngoài ra, vitamin D đóng vai trò như một cofactor trong quá trình trao đổi chất của nang tóc. Việc sử dụng vitamin đường thoa giúp cải thiện tình trạng rụng tóc do nguyên nhân chiếu xạ (thử nghiệm được tiến hành trên chuột). Nhóm thực phẩm chức năng được quảng bá với vai trò chống rụng tóc thường chứa các thành phần  kẽm, axit amin, nhiều loại vitamin, kích thích tố, dầu jojoba, urê, chiết xuất lúa mì, dầu mầm, và thảo mộc,..Tuy nhiên, việc kiểm chứng tác dụng của thực phẩm chức năng của cơ quan quản lý vẫn chưa chặt chẻ và không đòi hỏi những nghiên cứu lâm sàng đạt quy mô tiêu chuẩn.

Phương pháp phụ trợ

Dầu gội và các sản phẩm chăm sóc tóc

Nhiều loại sản phẩm vệ sinh da đầu thường được sử dụng như một phương pháp bổ sung trong điều trị rụng tóc với tác dụng tăng cường khả năng hấp thu của da đầu đối với hoạt chất điều trị chính như minoxidil. Những sản phẩm loại bỏ dầu nhờn quá mức trên da đầu (nguyên nhân gây bít tắc nang tóc) giúp tăng tuần hoàn đến nang tóc, phần nào cải thiện dinh dưỡng nang tóc.

Dexpanthenol

Dexpanthenol là thành phần thường được sử dụng trong điều trị rụng tóc do nguyên nhân androgen. Thành phần có tác dụng hydrat hóa da đầu, ngăn ngừa hiện tượng mất nước và cải thiện khả năng giữ ẩm của sợi tóc. Vẫn chưa có bằng chứng lâm sàng thuyết phục cho hiệu quả của phương pháp. Có những báo cáo về tác dụng phụ gây viêm da tiếp xúc của sản phẩm.

Peptide đồng

Các sản phẩm có chứa ion đồng có tác dụng chữa lành vết thương và kích thích tăng trưởng tóc. Các peptide liên kết với đồng thường được ứng dụng trong các sản phẩm đường thoa hoặc dầu gội để hỗ trợ điều trị rụng tóc. Cơ chế chính xác vẫn chưa được chứng minh. Nhưng theo một nghiên cứu trên chuột cho thấy peptide liên kết với đồng gây ra tình trạng phì nang lông. Một nghiên cứu mù đôi, pha II, đơn trung tâm trên người cho thất peptide liên kết đồng làm ở hàm lượng 2,5% giúp gia tăng số lượng tóc ở nhóm thử so với nhóm chứng (dùng placebo). Khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Liệu pháp Laser

Mặc dù laser thật sự cho hiệu quả tức thời trong điều trị rụng tóc nhưng hiệu quả về lâu dài cần được nghiên cứu lâm sàng để làm sáng tỏ. laser diode làm tăng lưu lượng máu đến da đầu thông qua quan sát Doppler. Hiện nay, giới khoa học đang tập trung nhiều hơn vào nghiên cứu cấu trúc di truyền nhằm đưa ra biện pháp điều trị hiệu quả nhất. liposomes mang DNA ngăn cản sự biểu hiện thụ thể androgen đang là nghiên cứu tập trung khá nhiều chi phí, hy vọng sẽ mở ra một phương pháp mới trong điều trị rụng tóc

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa