GIẢM BÉO BẰNG PHƯƠNG PHÁP TIÊM GIẢM MỠ

TỔNG QUAN

Phương pháp tiêm giảm béo

Có hai nhóm hoạt chất được sử dụng trong phương pháp tiêm giảm béo dựa trên hai cơ chế chính:

  • Kích thích ly giải lipid trong các tế bào mỡ.
  • Phá hủy các tế bào mỡ.

Chỉ định

Những chỉ định cho tiêm giảm béo rất đa dạng. Trong số đó, các lắng đọng chất béo cục bộ dưới da có thể tích từ 100-500ml được cho là lý tưởng để điều trị, đặc biệt nếu vùng chất béo xốp, mềm. Những chỉ định khác bao gồm u mỡ hoặc đa u mỡ và các biến dạng sau hút mỡ.

Chống chỉ định

Các chống chỉ định tuyệt đối rất nhiều bao gồm: người trẻ dưới 18 tuổi, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang cho con bú, những bệnh nhân đang sử dụng thuốc chống đông coumadin hoặc heparin, đang có bệnh nặng hoặc nhiễm trùng, dị ứng với các sản phẩm đậu nành hoặc bất kỳ thành phần nào của hợp chất tiêm, phẫu thuật thu nhỏ ngực, đái tháo đường phụ thuộc insulin với kiểm soát tiểu đường không ổn định hoặc tuần hoàn yếu, bệnh béo phì toàn thân nghiêm trọng, người có phản ứng bất lợi đáng kể với điều trị trước đó, chứng ám ảnh kim nghiêm trọng, bệnh nhân nhận cấy ghép bị suy giảm miễn dịch và những người đang hóa trị liệu.

Tiêm giảm béo chống chỉ định tương đối với bệnh mao mạch hoặc suy mạch máu ở các chi xa, các tình trạng tự miễn như bệnh xơ cứng bì, hội chứng Sjogren’s, lupus và các bệnh tự miễn khác, đái tháo đường type 2, các bệnh nhân tăng huyết áp không ổn định hoặc bị bệnh tim, bệnh nhân HIV, bệnh nhân đang sử dụng aspirin hoặc các thuốc kháng viêm non-steroid, bệnh nhân đang sử dụng steroid liều cao, bệnh nhân bị suy gan hoặc suy thận, eczema hoặc bệnh vẩy nến ở ngay hoặc gần vùng điều trị, người không có khả năng hoặc từ chối tuân thủ chế độ ăn kiêng và duy trì tập thể dục.

Các dụng phụ

Tiêm dưới da các công thức phosphatidylcholine có thể gây ra cảm giác bỏng tại chỗ, đỏ và phù, nổi mày đay tạm thời, bầm và tụ máu, phản ứng u hạt nhiễm trùng tự mất trong vòng một tháng, loét da. Bên cạnh đó, nếu vô tình tiêm vào các cơ sẽ gây cảm giác đau tức thời. Viêm mô mỡ dưới da cùng với sự kết tập các bạch cầu trung tính và sự hoại tử mỡ cũng có thể xảy ra. Sự hình thành mạch có thể cải thiện diện mạo của da lão hóa và cải thiện tình trạng da lỏng lẻo, tuy nhiên ở những vùng thiếu máu cục bộ tương đối thì phản ứng này có thể được quan sát như dãn mạch dai dẳng hoặc tĩnh mạch nổi.

Buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng, rối loạn kinh nguyệt và ngất xỉu do liều cao (1200mg hoặc cao hơn) là các tác dụng phụ toàn thân hiếm gặp.

Các vùng điều trị

Vùng bụng và vùng lưng ở những bệnh nhân không béo phì là vị trí điều trị tốt nhất. Vùng cổ dưới cằm và đường viền hàm dưới có thể được điều trị khi sử dụng kỹ thuật chính xác. Bên cạnh đó, cánh tay trên, đùi, đầu gối có nhiều đánh giá khác nhau. Trong khi đó, vùng xa xương chậu, cánh tay, ngực, vùng mặt trên đường viền hàm, mỡ mí mắt dưới, vùng thượng vị và vùng cổ trung tâm cần được tránh khi thực hiện tiêm ly giải mỡ để tránh chảy xệ da hoặc loét da hay tụ máu.

NHÓM HOẠT CHẤT KÍCH THÍCH LY GIẢI LIPID TRONG CÁC TẾ BÀO MỠ

Cơ chế

Cơ chế của phương pháp tiêm ly giải lipid dựa trên sự kích hoạt quá trình ly giải lipid trong các tế bào mỡ. Ngưỡng phân giải lipid của các tế bào mỡ sẽ khác nhau ở những vị trí khác nhau trên cơ thể. Thụ thể α2-adrenergic là một thụ thể có tác dụng ức chế sự ly giải lipid, phân bố nhiều ở vùng hông, đùi của phụ nữ. Bên cạnh đó, hormon estrogen lại có vai trò tăng sản sinh các thụ thể α2-adrenergic ở các vị trí này, do đó trên cơ thể người phụ nữ có sự phân bố mỡ không đồng đều ở các vùng. Sự khác biệt về ngưỡng ly giải lipid dẫn đến việc giảm mỡ ở phụ nữ tại các vùng hông đùi sẽ khó khăn hơn so với vùng bụng và ngực nơi có ngưỡng ly giải lipid tương đối thấp. Việc giảm mỡ ở khu vực nhất định trên cơ thể không thể diễn ra ở tình trạng bình thường do các chất kích thích ly giải lipid nội sinh (như catecholamin) làm giảm ngưỡng ly giải lipid ở mức độ như nhau trên toàn cơ thể. Tuy nhiên, các chất kích thích ngoại sinh, như isoproterenol, khi được tiêm cục bộ vào một khu vực nhất định sẽ làm giảm ngưỡng ly giải lipid và đẩy nhanh tốc độ giảm mỡ tại vùng đó. Theo các nghiên cứu đã thực hiện, có ít nhất 3 cơ chế chính làm gia tăng ly giải lipid là: ức chế men phosphodiesterase hoặc thụ để adenosin, kích hoạt thụ thể β-adrenergic và ức chế thụ thể α2– adrenergic.

 

Cơ chế quá trình ly giải mỡ

Các hoạt chất kích thích ly giải lipid

Aminophyllin, isoproterenal hoặc forskolin và yohimbin được coi là các chất hoạt động theo 3 cơ chế ly giải lipid khác nhau. Các chất này điều kích hoạt quá trình ly giải lipid bằng cách gia tăng nồng độ adenosin monophosphat vòng (cAMP) thông qua gia tăng hoạt tính của adenyl cyclase, hoặc ức chế sự phân hủy cAMP. Nồng độ cAMP nội bào gia tăng sẽ kích hoạt protein kinase A là một protein làm tăng các hormon đốt mỡ (Hormon- sensitive lipase), kết quả là làm phân hủy các triglycerid và giải phóng các acid béo và glycerol ra khỏi tế bào.

Amophillin

Trong điều trị, amophillin là thuốc thuộc nhóm giãn phế quản yếu, có thời gian tác dụng ngắn được sử dụng trong điều trị hen suyễn. Trong tế bào, aminophillin là chất ức chế phosphodiesterase, làm tăng nồng độ cAMP, đồng thời chẹn thụ thể adenosin không chọn lọc, ngăn chặn ức chế adenyl cyclase thông qua ức chế protein G.

Isoproterenol

Isoproterenol làm gia tăng cung lượng tim, được dùng trong điều trị nhịp tim chậm và block nhĩ thất. Trong tế bào, isoproterenol là một catecholamin tổng hợp tác động trực tiếp, tương tự như epinephrin, nó kích hoạt thụ thể β-adrenergic không chọn lọc, làm gia tăng hoạt tính của adenyl cyclase thông qua kích hoạt protein G.

Một nghiên cứu ban đầu đã kết luận rằng isoproterenol kích thích con đường β-adrenergic thông qua cơ chế tương tự như các chất kích thích nội sinh. Nghiên cứu này tiến hành điều trị các mẫu sinh thiết chất béo của các vận động viên marathon và nam giới ít vận động với epinephrin, isoproterenol và propranolol. Một nghiên cứu khác đã khẳng định những phát hiện này bằng cách sử dụng các tế bào mỡ người nuôi cấy và chứng minh rằng các tế bào mỡ được điều trị với isoproterenol làm gia tăng tốc độ ly giải lipid.

Forskolin

Forskolin là chiết xuất thảo dược, được sử dụng như một thuốc giãn mạch, đôi khi cũng được sử dụng để điều trị cao huyết áp, hen suyễn và tăng nhãn áp. Trong tế bào, forskolin là một chất kích hoạt thụ thể, kích hoạt adenyl cyclase tương tự như cơ chế của isoproterenol.

Yohimbin

Yohimbin là dạng thực phẩm chức năng, giúp tăng cường lưu lượng máu ngoại vi và được sử dụng để điều trị liệt dương. Trong tế bào, yohimbin chẹn các thụ thể α2-adrenergic, ngăn chặn ức chế adenyl cyclase thông qua ức chế các protein G.

NHÓM CHẤT PHÁ HỦY CÁC TẾ BÀO MỠ

Cơ chế

Khác với nhóm chất kích thích ly giải lipid để tăng cường phân giải mỡ, nhóm này giảm béo dựa trên cơ chế phá hủy các tế bào mỡ bằng cách sử dụng các chất hoạt động bề mặt như phosphatidylcholin và deoxycholat.

Các hoạt chất phá hủy các tế bào mỡ

Phosphotidylcholin

 

 Phosphatidylcholin là một phospholipid nguồn gốc tự nhiên với khung glycerol đã được ester hóa với cholin và chứa 2 acid béo chuỗi dài với thành phần có cực và phân cực.

Chức năng sinh lý của phosphatidylcholine trong cơ thể

Phosphatidylcholine là một glycerolphospholipid tự nhiên gồm glycerol gắn với 2 acid béo và choline. Nó có 3 chức năng quan trọng:

  • Nhũ hóa chất béo trong chế độ độ ăn uống hàng ngày, do đó đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu hóa chất béo.
  • Là một thành phần của các apolipoprotein cần thiết cho chuyển hóa cholesterol.
  • Là thành phần thiết yếu của các màng tế bào.

Phosphatidylcholin góp phần vào quá trình chuyển hóa chất béo và sự toàn vẹn màng tế bào, quan trọng trong dẫn truyền thần kinh, làm tăng độ tan của cholesterol, là tiền chất của acetylcholine và là một chất diện hoạt trong phế nang. Phosphatidylcholin có thể nhũ hóa chất béo trong máu, dẫn đến gia tăng diện tích bề mặt của các chylomicron, cho phép phân hủy các triglycerid nhanh hơn bằng enzym lipoproteinlipase.

Cơ chế hoạt động của PC trong mô dưới da

Cơ chế tác động chính xác vẫn chưa được hiểu rõ. Một số giả thuyết đã được đề cập trong các tài liệu cho rằng nó hoạt động như một thành phần hoạt tính dạng nhũ tương hòa tan lipid trong nước, có thể kích thích phóng thích lipase và phân giải chất béo, khi đó các triglyceride được thủy phân thành các acid béo và glycerol. Ngoài ra, PC có thể hoạt động để kích thích các thụ thể β hoặc ức chế các thụ thể α2, do đó làm gia tăng hoạt động ly giải lipid và đẩy nhanh quá trình loại bỏ chất béo qua hệ thống tiêu hóa và hệ tiết niệu.

Các nghiên cứu lâm sàng

Năm 2001, Rittes, một bác sĩ ở Brazil lần đầu tiên báo cáo trong tài liệu da liễu Anh về phương pháp tiêm phosphatidylcholin dưới da để giảm kích thước mỡ dưới mắt. 30 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu, được theo dõi tối đa 2 năm. 20mg phosphatidylcholin được tiêm vào vùng mỡ trung tâm và vùng bên, sự phân bố liều trên từng vùng mỡ thay đổi tùy theo nhu cầu bệnh nhân. Các bệnh nhân được điều trị bổ sung cách nhau 15 ngày nếu vùng mỡ phồng lên vẫn còn sau lần điều trị đầu tiên. 2 bệnh nhân được điều trị 4 lần, 5 bệnh nhân được điều trị 3 lần, 20 bệnh nhân được điều trị 2 lần và 11 bệnh nhân được điều trị 1 lần. Sự cải thiện được ghi nhận lại bằng cách quan sát và được ghi nhận ở tất cả các bệnh nhân. Sau khi điều trị, các bệnh nhân nhận thấy có bỏng nhẹ kéo dài 15 phút, phù toàn bộ mí dưới kéo dài khoảng 72 giờ và không có các báo cáo tái phát.

Năm 2004, Ablon và Rotunda đã báo cáo về việc sử dụng phosphatidylchon cho điều trị mỡ mí mắt dưới, 7-10 bệnh nhân đã chứng minh có lợi ích lâm sàng. Năm 2006,  Hasengschwandtner đã báo cáo về việc điều trị 441 bệnh nhân bằng phương pháp tiêm ly giải chất béo. Các bệnh nhân được điều trị tối đa 2500mg phosphatidylcholin trong một lần điều trị tại một vùng, số lần điều trị khác nhau. Một mũi tiêm chứa 0,5ml hỗn hợp gồm phosphatidylcholin 50mg/ml, NaCl làm chất pha loãng, buflomedil (thuốc giãn mạch) và phức hợp vitamin B, hỗn hợp được tiêm ở độ sâu 12mm và mỗi mũi tiêm cách nhau 1,5cm. Đánh giá sau điều trị được thực hiện ở tuần thứ 8, 15% bệnh nhân đáp ứng sau 1 lần điều trị và 72% đáp ứng sau 2 lần điều trị. Chu vi trung bình của vòng bụng trên giảm 3,7cm, vòng bụng dưới giảm 3,9cm, hông giảm 1,9cm và phần trên cánh tay giảm 1,6cm.

Độ an toàn của phosphatidylcholin khi tiêm dưới da

Phosphatidylcholin đã được sử dụng trong nhiều năm để ngăn ngừa và điều trị nghẽn mạch mỡ (tiêm tĩnh mạch), suy gan nặng (đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch), và trong công thức diện hoạt. Việc sử dụng các chế phẩm phosphatidylcholin đường uống và tiêm tĩnh mạch cho những chỉ định này chưa ghi nhận độc tính đáng kể thậm chí ở những liều tương đối cao. Các tác dụng phụ toàn thân được biết đến khi tiêm phosphatidylcholin là các tác động cholinergic như buồn nôn, tăng tiết nước bọt và đau bụng. Hầu hết các bác sĩ điều khuyến cáo giới hạn liều ở 2500mg/ điều trị để giảm thiểu các tác dụng phụ. Tiêm dưới da phosphatidylcholin có thể gây bỏng da, nổi mề đay, đỏ da, sưng, hoại tử và ngứa. Kỹ thuật tiêm quá nông có thể gây loét da.

Một kết quả có thể xảy ra sau khi tiêm phosphatidylcholin dưới da là tạo ra dòng chảy của các acid béo tự do. Các acid béo có thể gây nhồi máu cơ tiêm thực nghiệm ở chó, nghẽn mạch mỡ, gan nhiễm mỡ. Các mối quan tâm khác là khả năng tạo ra lượng lớn lysophosphatidylcholin, một sản phẩm thoái hóa của phosphatidylcholin. Lysophosphatidylcholin được biết là gây ra bệnh gan ứ mật, tăng men gan và tan huyết trong lòng mạch.

Các phản ứng dị ứng nghiêm trọng như quá mẫn chưa được báo cáo. Các bác sĩ nội khoa có kinh nghiệm đã báo cáo các tác dụng phụ tại chỗ như đau, tụ máu, phù, sần, các tác dụng phụ toàn thân thường hiếm gặp (Rittes, 2007). Trong báo cáo của Hasengschwandtner năm 2006, không ghi nhận các tác dụng phụ hoặc biến chứng nghiêm trọng nào. Trong 31 bệnh nhân có hoạt động tuần hoàn bình thường trong vòng 6 tháng trước điều trị, tổng bilirubin và gamma glutamyl transferase được kiểm tra vào ngày 5 và tuần 8 sau điều trị nhận thấy tất cả các giá trị đều nằm trong giới hạn bình thường. Tất cả các bệnh nhân đều báo cáo mức độ đau, sưng và đỏ từ nhẹ đến vừa, tụ máu sâu cũng được ghi nhận. Các bệnh nhân báo cáo thêm tình trạng đi tiêu phân mềm và 4 bệnh nhân đã báo cáo bị chảy máu kinh nguyệt ngoài chu kỳ kinh nguyệt bình thường. Da vùng điều trị được ghi nhận là chắc và da dư thừa co lại.

Năm 2016, Duncan và Chubaty đã báo cáo về dữ liệu an toàn đối với tiêm ly giải mỡ sử dụng các công thức dạng phosphatidylcholin. Dữ liệu được thu thập từ 75 bác sĩ thực hiện tiêm ly giải mỡ ở 17 quốc gia, 17376 bệnh nhân đã được điều trị. Không có các báo cáo bệnh nhân bị nhiễm khuẩn hay nhiễm mycobacteria không điển hình, loét da, viêm da hoạc kích ứng da mãn tính. Ghi nhận có 12% bệnh nhân thất vọng với kết quả. Các tình trạng như tăng sắc tố tạm thời (0,015%), phản ứng dị ứng (0,0003%) và đau dai dẳng hơn 2 tuần (0,015%) không thường xuyên xuất hiện.

Deoxycholat (acid deoxycholic)

 

Deoxycholat là một chất tẩy rửa nhẹ được sử dụng phổ biến để hòa tan phosphatidylcholin.

 

Vai trò của deoxycholat

Phosphatidylcholin rất nhớt và do đó không thể tiêm được. Vì vậy, cũng giống như các dược phẩm tiêm khác, natri deoxycholat là một muối mật cần được thêm vào để hòa tan phosphotidylcholin. Có nhiều tranh cãi về việc chất hóa học được tiêm nào có vai trò đem lại các kết quả lâm sàng ở bệnh nhân điều trị giảm mỡ dưới da. Có giả định cho rằng thành phần hoạt tính trong các chế phẩm tiêm giảm mỡ dưới da là phosphatidylcholin, tuy nhiên, có những dữ liệu cho thấy rằng natri deoxycholat cũng có thể là thành phần hoạt tính làm ly giải tế bào, dẫn đến giảm mỡ chứ không đơn thuần là một chất hòa tan. Bên cạnh đó, khi deoxycholat không có sự hiện diện của phosphatidyl đã được chứng minh là giảm các u mỡ. Brown đã thảo luận về vai trò của deoxycholat trong tiêm ly giải mỡ vào năm 2006. Brown cho rằng khi được tiêm cùng với phosphatidylcholin vào mô dưới da, có 4 dạng deoxycholat khác nhau tồn tại là dạng mixen, dạng túi và dạng tinh thể. Không biết dạng nào trong những dạng này tác động lên tế bào tạo mỡ nhưng Brown đã đưa ra một số khả năng có thể tồn tại:

  • Deoxycholat ở dạng túi với các monomer dư thừa, các monomer dẫn đến hoại tử tế bào mỡ.
  • Deoxycholat hiện diện ở dạng mixen dẫn đến huy động chất béo từ các tế bào tạo mỡ.
  • Dạng tinh thể được cho là phá hủy các tế bào.

Cơ chế hoạt động của deoxycholat

Deoxycholat dường như gây ra sự phá hủy các tế bào mỡ theo cách không đặc trưng do tác dụng tẩy rửa của nó. Mỡ trong cơ thể người được tiêm công thức phosphatidylcholin phức (phosphatidylcholine – deoxycholate) dẫn đến sự tạo không bào của các tế bào mỡ và phản ứng viêm cấp, mãn bên trong các vách và tiểu thùy của mỡ dưới da, các tế bào viêm làm gián đoạn trực tiếp hoặc phá hủy gián tiếp các màng tế bào mỡ thông qua cytokin hoặc phóng thích enzym phân cắt dẫn đến hoại tử mỡ, phản ứng viêm có thể giảm đi với sự tăng trưởng của nguyên bào sợi và sự sản sinh collagen.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa