MỘT VÀI ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ LIỆU PHÁP CẤY GHÉP VÙNG MẶT

Trong khi những khuyết điểm trên vùng thân người có thể được ẩn dấu dưới các lớp trang phục thì gương mặt là phần luôn phải lộ ra bên ngoài và dễ dàng bị nhận thấy các khiếm khuyết (nếu có). Điều này cũng khiến cho sự cân bằng của các đặc điêm trên mặt càng trở nên quan trọng. Ví dụ, một chiếc cằm nhỏ có thể làm cho mũi trông trở nên to hơn. Hơn nữa, một số đặc điểm trên gương mặt lại thường liên quan đến việc phỏng đoán về tâm trạng hay tính cách, chẳng hạn như cằm thụt sâu vào trong có thể được xem là dấu hiệu của sự yếu đuối, hay những người với gò má thấp có thể biểu hiện sự mệt mỏi, u buồn.

Cấy ghép vùng mặt (với các vật liệu tương thích sinh học) có thể giúp cải thiện các đặc điểm trên gương mặt và mang lại sự tự tin hơn. Cấy ghép mang lại hiệu quả tốt nhất ở các vùng cạnh mũi, cằm, hàm, má và cạnh của ổ mắt. Cấy ghép cằm, gò má và xương hàm là những chỉ định phổ biến nhất. Cấy ghép vùng gò má có thể khác nhau về hình dạng / kích thước tùy thuộc vào từng bệnh nhân.

 

Bác sỹ có thể sử dụng các vật liệu tự nhiên hoặc nhân tạo như silicone rắn, hydroxyapatite tự nhiên từ san hô hoặc mô và sụn trên chính cơ thể bệnh nhân (cần phải được lấy thông qua một quy trình khác). Tất cả những vật liệu này đều có những lợi ích riêng (ví dụ, hydroxyapatite kết hợp tốt với mô xương trong khi silicone thì không và có thể dễ dàng bị loại bỏ sau đó), tuy nhiên lựa chọn cuối cùng sẽ tùy thuộc vào mục đích thẩm mỹ cũng như sự tương thích của cơ thể (bao gồm việc tránh các thành phần gây dị ứng).

Quy trình cấy ghép

Phẫu thuật cấy ghép vùng mặt thường được thực hiện như một quy trình ngoại trú trong điều kiện gây tê cục bộ và có thể kéo dài từ 30 phút đến 1 giờ, một số quy trình cấy ghép vùng xương hàm có thể cần đến 2 giờ. Bác sỹ thường tạo một vết rạch bên trong miệng hoặc từ bên ngoài (ở mí mắt dưới đối với cấy gò má, hoặc bên dưới cằm đối với ghép cằm). Bác sỹ sau đó sẽ tạo một hốc bên cạnh xương gò má cứng, cằm hoặc cạnh hàm và đặt mảnh ghép đã chọn vào hốc này, cuối cùng khâu vết rạch lại bằng chỉ. Băng gạc sẽ được dùng bên ngoài để giữ cố định mảnh ghép cũng như giảm sưng và cảm giác khó chịu cho bệnh nhân. Bệnh nhân thường có thể trở về nhà nghỉ dưỡng ngay sau quy trình, tuy nhiên cần đảm bảo được chăm sóc bởi một người khác ít nhất trong ngày đầu tiên. Việc ở lại theo dõi tại cơ sở điều trị đôi khi là cần thiết.

Cấy ghép vùng mặt là một quy trình phẫu thuật nhỏ cần thời gian tương đối ngắn. Do vậy, nó thường được kết hợp với nâng cơ mặt, chỉnh hình mũi hoặc các quy trình khác để giảm đi chi phí cũng như rút ngắn thời gian hồi phục tống thể.

Sự hồi phục và kết quả

Việc cười nói cũng như di chuyển các phần trên mặt ở khu vực gần vùng cấy ghép có thể tương đối khó khăn trong một vài ngày đầu. Ngoài ra, có thể cần phải liên tục súc miệng trong một vài ngày vì tình trạng sưng bầm có thể cảm trở quá trình làm lành. Vùng da bên trên mảnh ghép có thể trở nên đen và sưng, đặc biệt trong 1 đến 2 ngày sau phẫu thuật. Các vết khâu bên trong sẽ biến mất trong vòng 10 ngày, các vết khâu bên ngoài cũng cần phải được loại bỏ trong thời gian này. Do vậy, sự hồi phục là khá nhanh và hầu hết bệnh nhân không phải mất nhiều hơn một tuần gián đoạn công việc. Một số vết sưng có thể tồn tại trong khoảng vài tháng và phần nào làm giảm đi biểu hiện kết quả của việc cấy ghép.

Hiệu quả đạt được bởi cấy ghép vùng mặt thường không làm thay đổi quá nhiều diện mạo bên ngoài mà chỉ giúp gương mặt có biểu hiện thẩm mỹ tốt hơn. Sự mất đối xứng trên gương mặt ở một mức độ nào đó là bình thường, tuy nhiên sự cân bằng về tỷ lệ giữa các vùng trên mặt hoàn toàn có thể được cải thiện với các quy trình cấy ghép thích hợp. Các kết quả thu được nhìn chung tồn tại khá bền lâu.

Nguy cơ và biến chứng

Một số vấn đề gây khó chịu (chẳng hạn như bầm và sưng) là bình thường và sẽ giảm dần trong một vài ngày. Các biến chứng nghiêm trọng tương đối hiếm gặp. Biến chứng có thể hoặc không liên quan đến vật liệu cấy. Một trong những vật liệu an toàn nhất là silicone rắn vốn không bị rò rỉ như gel silicone.

Các biến chứng nghiêm trọng hơn bao gồm tụ máu, nhiễm trùng, các nguy cơ của thuốc tê, tổn thương thần kinh dẫn đến biến đổi độ nhạy cảm của da, tạo sẹo và đau dai dẳng. Một số trong các biến chứng này chỉ mang tính tạm thời và sẽ tự cải thiện, một số khác (chẳng hạn như nhiễm trùng) cần phải được hướng dẫn xử lý bởi bác sỹ và một số còn lại (chẳng hạn như biến đổi độ nhạy cảm của da) có thể tồn tại vĩnh viễn.

Mảnh cấy ghép có thể bị lệch ra khỏi vị trí ban đầu và cần phải được điều chỉnh lại. Nếu có tình trạng nhiễm trùng và không thuyên giảm sau điều trị với kháng sinh, mảnh ghép cần phải được loại bỏ và tiến hành đưa vào lại ở một thời điểm khác. Cấy ghép vùng mặt không phải là một lựa chọn tốt khi đang sử dụng một số loại thuốc nhất định, chẳng hạn như thuốc chống đông.

Giống như hầu hết các quy trình phẫu thuật khác, những đối tượng không hút thuốc với tổng trạng sức khỏe tốt sẽ có nguy cơ biến chứng thấp hơn rất nhiều. Tay nghề và kinh nghiệm của bác sỹ cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng. Vì vậy, cần đảm bảo trao đổi kỹ với bác sỹ về các biến chứng có thể xảy ra trước khi quyết định thực hiện quy trình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa