NÂNG NGỰC SỬ DỤNG CHẤT ĐỘN ACID HYALURONIC (phần II)

Chỉ định

Nâng ngực dùng acid hyaluronic thích hợp cho những người có kích thước ngực nhỏ đến vừa, không bị chảy xệ và nếp gấp ngực rõ. Bệnh nhân cần có những kỳ vọng thực tế và sự hiểu biết rõ ràng về các tác dụng phụ cũng như các biến chứng, điều này cần phải được giải thích chi tiết khi tư vấn ban đầu cho bệnh nhân. Ngực chảy xệ hình thành khi các mô bị hạ xuống phía dưới dẫn đến đầu nhũ hoa nằm ngang với đường ngang nếp gấp ngực, phía dưới nó, hoặc dựa vào ngực.

Hình 5. Phân loại mức độ chảy xệ, (a) không chảy xệ, nhũ hoa nằm trên đường ngang nếp gấp ngực; (b) chảy xệ mức độ 1, nhũ hoa nằm ngang với đường ngang nếp gấp ngực; (c) chảy xệ mức độ 2, nhũ hoa nằm dưới đường ngang nếp gấp ngực; (d) chảy xệ mức độ 3, nhũ hoa gần như dựa vào ngực.

Đôi khi, các bệnh nhân có ngực chảy xệ mức độ 1 có thể điều trị thành công với Macrolane. Với lượng đáng kể đưa vào khoang sau ngực dọc nếp gấp ngực, hiệu quả nâng có thể đạt được.

Hình 6. (a-c) ngực chảy xệ mức độ 1 trước khi điều trị; (d-f) sau khi tiêm ngấm 150ml Macrolane VRF30 mỗi bên.

Nếu ngực bất đối xứng, cần phải được ghi nhận trước khi điều trị. Đôi khi sự mất cân đối của ngực không nhiều, chẳng hạn như ở vị trí nhũ hoa, có thể sử dụng các chất độn và điều này nên được giải thích với bệnh nhân. Không giống như phẫu thuật, vị trí của nếp gấp ngực không thể thay đổi khi dùng ống thông qua da. Như vậy hình dạng, đặc điểm và vị trí của nếp gấp ở một mức độ nhận thấy được, những kết quả  mong muốn có thể đạt được khi dùng các chất độn tiêm. Nhìn chung, nếu nếp gấp kém phát triển và ngực nhỏ, chỉ sử dụng một thể tích vừa phải. Nếu nếu gấp phát triển tốt và có mô ngực nhiều hơn thì có thể sử dụng thể tích lớn.

Bảng 2. Guideline hướng dẫn thể tích Macrolane VRF30 yêu cầu sử dụng cho nâng ngực.

Kích cỡ ngực Nếp gấp ngực Chảy xệ Da Thể tích (ml)
Rất nhỏ

Rất nhỏ

Nhỏ

Nhỏ

Trung bình

Trung bình

Trung bình

Lớn trung bình

Không thấy rõ

Thấy rõ

Có hình dạng

Có hình dạng

Được xác định rõ

Được xác định rõ

Được xác định rõ

Được xác định rõ

Không

Không

Không

Không

Không

Không

Mức độ 1

Mức độ 2, 3

Căng

Căng

Căng

Hơi nhão

Căng

Hơi nhão

Hơi nhão

Nhão

Không được chỉ định

70-80

80-100

90-110

100-120

120-140

130-160

Không được chỉ định

Các bệnh nhân có mô ngực rất nhỏ và độ che phủ mô mềm có thể không phù hợp với quy trình này, đặc biệt nếu không có nếp gấp ngực. Bất kỳ bất thường khi thăm khám nên được đánh giá bằng siêu âm, chụp nhũ ảnh hoặc chụp cộng hưởng từ trước khi cân nhắc nâng ngực sử dụng chất độn. Các bác sĩ từ chối điều trị những bệnh nhân có tiền sử gia đình ung thư vú và thực hiện chụp nhũ ảnh cơ bản cho những bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên. Mặc dù tình trạng bất đối xứng ngực có thể được giải quyết bằng cách dùng acid hyaluronic nếu bệnh nhân không muốn phẫu thuật nhưng màng bao ngực bị giới hạn và không có nếp gấp có thể chỉ cải thiện nhẹ.

Hình 7. Điều trị ngực bất đối xứng, (a-c) bệnh nhân ngực nhỏ 1 bên, (d-f) sau khi điều trị với 60ml Macrolane VRF30 ở ngực trái.

Vật liệu

Nâng ngực sử dụng acid hyaluronic (Macrolane VRF 30) được thực hiện dưới sự gây tê tiêm ngấm tại chỗ sử dụng ống thông. Vật liệu chính cần thiết để thực hiện quy trình được trình bày như trong hình 8.

Hình 8. (a) Ống thông tiêm ngấm được dùng để gây tê tại chỗ và đưa chất độn vào, (b) 100ml Macrolane VRF30, các ống tiêm 10-20ml được chuẩn bị sẵn để tiêm.

Kỹ thuật

Hình 9. Quy trình nâng ngực dùng acid hyaluronic

Nếu cần thiết có thể sử dụng thuốc chống lo âu lorazepam 1mg tiêm 1 giờ trước quy trình. Để làm cơ sở trước khi nâng ngực, cần đo khoảng cách từ khe xương ức đến nhũ hoa, giữa các nhũ hoa và từ nếp gấp ngực đến nhũ hoa. Bệnh nhân được đánh dấu ở tư thế đứng thẳng. Phần quan trọng nhất của việc đánh dấu là xác định vị trí và mức độ nếp gấp ngực, cũng cần phác họa 4 góc phần tư của ngực để hướng dẫn chính xác vị trí của chất độn trong suốt quy trình. Đa số các chất độn được đưa vào gốc phần tư phía dưới của ngực. Bệnh nhân được đặt nằm ngửa trên giường phẫu thuật với hai tay được đặt thoải mái hai bên. Việc lựa chọn vị trí rạch và tiếp cận khoang sau ngực có sự khác nhau. Một số bác sĩ phẫu thuật thích tiếp cận khoang thông qua một vết rạch phía dưới nếp gấp ngực. Một số khác tiếp cận thông qua vết rạch gần nách. Bác sĩ thường rạch một vết ở phần trên ngực, dưới xương đòn. Từ điểm này, chất độn được đưa vào một cách dễ dàng  theo chuyển động hình quạt. Cho phép ống thông được di chuyển để đưa chất độn vào mặt giữa ngực mà không bị hạn chế. Vết rạch ở vị trí này không rõ ràng hoặc có thể nhìn thấy hơn bên dưới nếp gấp ngực và hồi phục để mờ dần trong vòng 1 hoặc 2 tuần. Vết rạch ở nếp gấp hoặc dưới nếp gấp là phản trực giác khi hình dáng tự nhiên và sự phân bố mô ngực được chú ý đến. Cách tiếp cận này cũng để lại một đường dưới da có thể dẫn đến sự di chuyển của chất độn, gây ra cục chất độn ở trên thành bụng.

Cần rửa chlorhexidine để chuẩn bị cho vùng da từ cằm đến rốn và vùng nách. Tấm phủ và khăn vô trùng cần được đặt lên để cách ly ngực không làm ảnh hưởng đến khả năng đánh giá đường nét của ngực trong suốt tiến trình thực hiện nâng ngực. Tiếp theo, tiêm trong da lidocaine 2% với epinephrine 1:200000 bằng kim cỡ 30. Tiêm 3-5ml thuốc gây tê khác vào sâu trong ngực và các cơ ngực bằng kim cỡ 27. Vết rạch được tạo ra bằng lưỡi #11. Đối với mỗi bên ngực, sử dụng ống tiêm 20ml để gây tê tại chỗ. Mỗi ống tiêm chứa 4ml xylocaine 2% và epinephrine 1:200000, 14ml sodium chloride 0,9% và 0,25ml sodium bicarbonate 8,4% (kl/tt). Tổng cộng 160mg lidocain được tiêm thấm vào mỗi khoang sau ngực. Bệnh nhân nên được cân trọng lượng trước quy trình và không vượt quá tổng liều 7mg/kg lidocain và epinephrine. Ống tiêm 20ml thứ nhất được gắn vào ống thông tiêm ngấm hẹp. Tay không dùng tiêm giữ lấy ngực và cố gắng để nâng nó ra khỏi thành ngực để mở  khoang ngực giúp ống thông đi theo vết rạch dọc theo bề mặt của cơ ngực về phía nếp gấp ngực. Ống thông đi qua mỡ dưới da và lớp cân nông, và đi vào khoang sau ngực, ống thông nên được đi qua vách ngăn ngang. Những ngón tay của bàn tay không tiêm được di chuyển đến nếp gấp ngực để cảm nhận được đầu của ống thông nằm dưới da dọc theo nếp gấp. Toàn bộ bốn góc phần tư của khoang sau ngực được tiêm ngấm với thuốc tê tại chỗ, đặc biệt chú ý để sự tiêm ngấm hoàn toàn nếp gấp ngực. Các bước tương tự được lặp lại ở bên đối diện để cho có 30-40ml được tiêm ngấm mỗi bên. Sau khi chờ ít nhất 10 phút để co mạch và gây tê đạt tối ưu, Macrolane VRF được tiêm chậm vào khoang sau ngực. Thông thường, Macrolane VRF30 được chọn để nâng ngực mặc dù VRF20 có độ nhớt thấp hơn cũng có thể được sử dụng, đặc biệt nếu ngực rất nhỏ và có độ che phủ mô nhỏ trên bề mặt nâng. Macrolane VRF có sẵn là ống 10ml hoặc 20ml. Bác sĩ sử dụng Macrolane VRF30 trong ống tiêm 10ml để dễ dàng và chính xác khi tiêm. Ống tiêm 10ml được gắn vào ống thông loại 14. Một lần nữa, tay không dùng tiêm nâng ngực ra khỏi thành ngực khi ống thông đưa vào khoang sau ngực. Ngay khi đi vào vết rạch, đầu sẽ đi sâu vào khoang sau ngực ngay phía trên cơ ngực và tiến chậm về phía nếp gấp ngực. Nên cẩn thận không đi về phía bề mặt do sự di chuyển của chất độn về phía bề mặt ở mô ngực có thể dẫn đến u cục sờ thấy. Trước khi đến nếp gấp ngực, đầu ống thông đi qua vách ngăn sợi nằm ngang. Ống thông phải đi qua đây để đến được phần thấp nhất của ngực và đạt được kết quả tối ưu. Tay không dùng tiêm cảm nhận được đầu ống thông ở nếp gấp. Khi cảm nhận được điều này, tiêm acid hyaluronic chậm và đều ở nếp gấp và gần nó, bên trên và bên dưới vách ngăn (hình 10). Khoảng 60-70% chất độn được tiêm ở nửa dưới của ngực và dọc theo nếp gấp để giúp nâng ngực được tự nhiên. Lượng acid hyaluronic tiêm để nâng ngực phụ thuộc vào kích cỡ ngực, hình dạng, tình trạng da nằm trên và mong muốn của bệnh nhân. Thể tích điển hình yêu cầu để nâng ngực nhỏ là 90-110ml cho mỗi bên. Khi đã đưa vào một thể tích khoảng 70-80% chất độn, ngực cần được massage để giúp định hình chất độn vào đúng vị trí.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa