NHỮNG HOẠT CHẤT DÙNG TRONG QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH TĂNG SẮC TỐ (PHẦN I)

Tóm tắt

Rối loạn tăng sắc sau viêm rất khó điều trị, đặc biệt ở những người có kiểu da tối màu. Mục đích là giảm tăng sắc tố sau viêm mà không gây mất sắc tố không mong muốn hoặc gây kích ứng ở những vùng da xung quanh. Mặc dù có rất nhiều cách điều trị hiệu quả, nhưng vẫn có những phản ứng phụ đáng kể liên qua đến điều trị. Các tác nhân điều trị phổ biến nhất là sử dụng hydroquinon tại chỗ. Có nhiều tác nhân phenolic khác như N-acetyl-4-cystaminylphenol (NCAP), hiện dạng được nghiên cứu và phát triển. Các chất non-phenolic, bao gồm tretinoin, adapalen, các corticosteroid tại chỗ, acid azelic, arbutin, acid kojic, chiết xuất acid licorice cũng được sử dụng trong rối loạn tăng sắc tố.

Tăng sắc tố là một vấn đề thường gặp gây ra bởi các rối loạn viêm da khác nhau, như eczema, viêm da tiếp xúc dị ứng và viêm da tiếp xúc kích ứng. Mụn trứng cá cũng là một nguyên nhân thường gặp. Các rối loạn sần tróc vảy da thường dẫn đến tăng sắc tố sau viêm. Nám da là một dạng phổ biến của tăng sắc tố không viêm.

Tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thường đảo ngược kết quả điều trị, làm ảnh hưởng đến quá trình điều trị. Do đó, việc đầu tiên trong điều trị tăng sắc tố là sử dụng kem chống nắng phổ rộng kết hợp với phenolic như hydroquinon, hoặc với một chất non-phenolic như tretinoin, acid azelaic hoặc acid kojic. Có hàng trăm công thức kem chống nắng với nồng độ các chất hấp thu UV khác nhau. Chất hấp thu UVA và UVB được dùng trong công thức kem chống nắng bao gồm: các sản phẩm chứa para-aminobenzoic acid, salicylat, cinnamat, benzophenone, kẽm oxid và titan oxid. Hầu hết các sản phẩm kem chống nắng chứa hỗn hợp một hoặc nhiều chất hấp thu UVB.

Hydroquinon và các hợp chất liên quan làm giảm sản xuất melanin bởi sự ức chế của enzym tyrosinase. Các corticosteroid tại chỗ cũng hoạt động ức chế tyrosinase và ảnh hưởng đến chức năng bài tiết của mạng lưới nội chất ở tế bào melanin. Các tác nhân như acid salicylic và acid glycolic hoạt động để loại bỏ melanin trong lớp biểu bì bằng cách thay da. Tretinoin, có tác dụng thay da nhẹ, hoạt động tương tự như trên. Nó cũng ức chế tyrosinase.

Hydroquinon

Hydroquinon là một chất hydroxyphenolic, là tiêu chuẩn vàng trong điều trị tăng sắc tố sau viêm trong hơn 50 năm qua. Nó hoạt động bằng cách ức chế emzym tyrosinase, do đó làm giảm chuyển đổi DOPA thành melanin. Một số cơ chế hoạt động khác có thể là sự phân hủy tế bào melanin, sự thoái hóa melanosomes và ức chế tổng hợp DNA và RNA.

Hydroquinon có thể được kết hợp ở nồng độ 5-10%, nhưng ở nồng độ này có thể gây kích ứng và không ổn định. Hydroquinon nồng độ 2% có sẵn ở các cửa hàng tại Mỹ và Canada nhưng không hiệu quả như các công thức 3% và 4%, vì chúng cho tác dụng chậm hơn so với các nồng độ cao hơn. Các chất chống oxy hóa, như vitamin C và retinoid, cũng như alpha-hydroxy acid được sử dụng như chất phụ gia để tăng khả năng thâm nhập và tăng hiệu quả. Các rối loạn sắc tố da xám xanh ngoại sinh được báo cáo do sử dụng hydroquinon ở những bệnh nhân kiểu da tối màu, đặc biệt là những phụ nữ Nam Phi thường xuyên sử dụng hydroquinon nồng độ cao trên diện tích bề mặt da lớn. Mặc dù hydroquinon được sử dụng rộng rãi ở Bắc Mỹ, nhưng chỉ có khoảng 30 trường hợp được báo cáo về rối loạn da ngoại sinh do sử dụng hydroquinon.

Phản ứng bất lợi từ việc sử dụng hydroquinon bao gồm viêm da tiếp xúc dị ứng và kích ứng, và sự đổi màu móng tay. Tăng sắc tố sau viêm có thể xảy ra do viêm da tiếp xúc. Sự giảm sắc tố ở da bình thường xung quang vùng da được điều trị cũng có thể xảy ra. Chúng thường được khắc phục bằng cách ngưng sử dụng hydroquinon.

Các chất Phenolic khác

Monobenzone (ether monobenzyl của hydroquinon) là một chất phenolic đặc biệt được chỉ định trong mất sắc tố ở bệnh bạch biến. Nó được áp dụng tại chỗ để làm giảm sắc tố vĩnh viễn ở những vùng da bình thường xung quanh những vùng lang trắng ở bệnh nhân bạch biến (trên 50% bề mặt cơ thể). Kem được áp dụng một lớp mỏng, chà xát vào vùng da sắc tố bình thường 2 hoặc 3 lần mỗi ngày. Giảm sắc tố thường đạt được sau 6-12 tháng điều trị với monobenzone 20%. Sau đó, nên áp dụng thường xuyên theo yêu cầu để duy trì mất sắc tố. Kem monobenzone có thể gây ra mất sắc tố thứ cấp ở những vị trí cách xa vùng được áp dụng ban đầu.

N-acetyl-4-cysteaminylphenol (NCAP) là một chất phenolic khác đang được phát triển và hiện chưa có ở Bắc Mỹ. NCAP hoạt động làm giảm glutathion nội bào bằng cách kích thích pheomelanin hơn là eumelanin. Nó cũng ức chế hoạt động tyrosinase, được biết là ổn định hơn và ít gây kích ứng hơn hydroquinon. Trong một nghiên cứu ở 12 bệnh nhân bị nám sử dụng NCAP 4%, 66% bệnh nhân cải thiện rõ rệt và 8% mất hoàn toàn nám. Những thay đổi của chứng sạm da rõ rệt sau 2-4 tuần khi sử dụng NCAP hàng ngày.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa