ROSACEA (PHẦN II )

SINH LÝ BỆNH

Nguyên nhân của bệnh rosacea hiện chưa được biết rõ. Tuy nhiên, một số yếu tố như mạch máu, khí hậu, sự thoái hóa cấu trúc da, các chất hóa học, các bất thường về lỗ chân lông, vi sinh vật, sự biểu hiện của ferritin, các gốc tự do oxy hóa (ROS), sự tăng hình thành mạch và rối loạn các peptid kháng khuẩn (AMPs) đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh. Hơn nữa, cách phân loại rosacea cũng có thể dựa trên độ nhạy cảm của bệnh nhân tới các tác nhân kích thích.

Mạch máu

Tăng lưu lượng máu tới các mạch máu trên khuôn mặt và tăng số lượng mạch máu gần bề mặt da được biết liên quan đến chứng đỏ bừng ở rosacea. Hơn thế nữa, chứng giãn mao mạch – đáp ứng bình thường khi tăng thân nhiệt dễ thấy hơn ở các bệnh nhân rosacea.

Khí hậu

Một số bằng chứng cho thấy tiếp xúc với khí hậu khắc nghiệt gây tổn thương mạch máu và mô liên kết dưới da, cũng bao gồm tiếp xúc với bức xạ mặt trời. Điều này giải thích tại sao rosacea lại xuất hiện chủ yếu ở những khu vực cao hơn trên khuôn mặt và có khuynh hướng bùng phát vào mùa xuân. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cho thấy điều ngược lại, trong đó hầu hết các triệu chứng của bệnh nhân không xấu hơn khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Sự thoái hóa cấu trúc da

Rosacea liên quan đến sự phá hủy nội mô và thoái hóa cấu trúc da. Điều này dẫn đến giảm hỗ trợ mô từ các mạch máu dưới da, gây ra huyết thanh hỗn hợp, các chất trung gian gây viêm và chất thải chuyển hóa. Hoặc có sự bất thường ban đầu tồn tại trong mạch máu và dẫn đến rò rỉ mạch máu, giải phóng chậm các protein huyết thanh, các chất trung gian gây viêm và chất thải chuyển hóa làm thoái hóa cấu trúc da.

Chất hóa học và các chất được ăn vào

Thực phẩm cay, đồ uống nóng, có cồn được biết gây ra đỏ mặt ở các bệnh nhân rosacea. Tuy nhiên, hầu hết các bằng chứng không ủng hộ chế độ ăn uống đóng vai trò trung tâm trong sinh bệnh học của bệnh. Hơn nữa, một số loại thuốc, như amiodarone, steroid tại chỗ, steroid đường hít và vitamin B6, B12 liều cao có thể gây ra bùng phát rosacea.

Quá trình viêm quanh mạch và nang lông

Quá trình thâm nhiễm viêm có thể tồn tại ở xung quanh mạch máu và/ hoặc ở quanh nang lông, tuy nhiên, vẫn chưa biết rõ vị trí nào xảy ra viêm nhiều hơn. Để trả lời cho câu hỏi này, cần thiết kế nhiều nghiên cứu để phân chia các loại rosacea vì kết quả sẽ khác nhau tùy thuộc vào cách phân loại.

Vi sinh vật

Các loài Demodex (thường trú ở nang lông của người) đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của rosacea. Một số nghiên cứu cho thấy Demodex thường xuất hiện ở vùng da bị rosacea, như mũi và má. Nghiên cứu cũng ủng hộ rằng phản ứng miễn dịch của tế bào lympho T bổ trợ xảy ra xung quanh các kháng nguyên Demodex ở bệnh nhân rosacea. Tuy nhiên, bằng chứng đối lập cho thấy Demodex không gây ra đáp ứng viêm ở bệnh nhân rosacea. Hơn nữa, Demodex cũng được tìm thấy số lượng lớn ở những người khỏe mạnh không bị rosacea. Cần có nhiều nghiên cứu hơn để xác định Demodex có thực sự gây bệnh hay không.

Ngoài ra, bằng chứng Helicobacter pylori liên quan đến nguyên nhân gây bệnh rosacea chưa được thuyết phục. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu không kiểm soát được các biến số gây nhiễu ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc H pylori như: giới tính, tuổi tác, tình trạng kinh tế xã hội và thuốc men. Hơn nữa, những nghiên cứu này không có ý nghĩa về mặt thống kê vì sự phổ biến trong nhiễm H pylori.

Sự biểu hiện của Ferritin

Sắt xúc tác chuyển hóa hydro peroxid thành các gốc tự do, dẫn tới tổn thương mô bằng cách phá hủy màng tế bào, protein và ADN. Ở mức độ tế bào, sắt không được chuyển hóa sẽ dự trữ dưới dạng ferritin. Một nghiên cứu năm 2009, mẫu sinh thiết da của bệnh nhân rosacea được phân tích bằng phương pháp IHC và số tế bào ferritin (+) cao hơn đáng kể so với những người bình thường. Ngoài ra, ferritin (+) cao hơn tương quan với các thể rosacea. Do đó, tăng thải sắt tự do từ sự phân giải protein của ferritin có thể dẫn đến quá trình oxy hóa phá hủy da và góp phần vào sinh bệnh học của rosacea.

Các gốc tự do oxy hóa

Trong giai đoán sớm của quá trình viêm, các gốc tự do oxy hóa (ROS) được giải phóng bởi bạch cầu trung tính được cho là có vai trò trung tâm trong quá trình viêm liên quan đến rosacea. Các gốc tự do như: các anion superoxid và các gốc hydroxyl, thêm vào đó là các phân tử phản ứng khác như oxy phân tử, oxy nguyên tử và hydro peroxid, bao gồm nhiều ROS dẫn đến oxy hóa gây tổn thương mô. Một số cơ chế đã giải thích việc ROS gây ra quá trình viêm, đáng chú ý là việc khử hoạt tính bảo vệ tự nhiên gây ra bởi stress oxy hóa quá mức từ ROS; thay đổi cân bằng lipid trong bệnh nhân rosacea ở tỷ lệ bình thường sẽ ngăn chặn việc tạo ra ROS; việc sản xuất cytokine và các chất trung gian gây viêm khác bởi tế bào keratin, nguyên bào sợi và các tế bào nội mô bị phá hủy bởi ROS; và sự sinh ra ROS bởi cathelicidin được tìm thấy lượng lớn hơn trên da mặt của người bệnh.

Sự hình thành mạch và sự biểu hiện quá mức của yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu (VEGF)

Các nghiên cứu được thực hiện bằng cách soi mao mạch của bệnh nhân rosacea thể giãn mạch cho thấy sự tăng hình thành mạch và giãn mạch máu. Nhiều nghiên cứu bằng phương pháp IHC cho thấy VEGF tăng lên trong nội mạc mạch máu ở vùng da bị tổn thương so với vùng da không bị tổn thương ở bệnh nhân rosacea. Cuevas và cộng sự đã sử dụng dobesilate tại chỗ – một chất ức chế yếu tố tăng sinh mạch trong điều trị rosacea thể giãn mạch và thấy được sự cải thiện trong đỏ da và giãn mạch sau 2 tuần.

Peptide kháng khuẩn

Các AMP là những protein trọng lượng phân tử nhỏ, là một phần của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và đã được chứng minh hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng chống lại vi khuẩn, virus và nấm. Chúng được phóng thích nhanh khi da bị tổn thương và/ hoặc bị nhiễm trùng, và có liên quan đến bệnh sinh của nhiều quá trình viêm ở da. Cathelicidin và β-defensin là 2 loại AMP phổ biến, trong đó cathelicidin đã được chứng minh rõ trên bệnh nhân rosacea.

Cụ thể, dạng LL-37 peptide của cathelicidin đã được tìm thấy một lượng đáng kể ở bệnh nhân rosacea so với những người bình thường. LL-37 được kích hoạt bởi bạch cầu đa nhân trung tính và tế bào lympho. LL-37 tương tác với tế bào nội mạc và kích thích sự hình thành mạch trên in vitro và in vivo. Nó cũng điều chỉnh sự biểu hiện của VEGF. Tiêm LL-37 và các peptide dẫn xuất của LL-37 trên chuột làm giảm viêm, ban đỏ và giãn mạch; vì vậy, các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng sự gia tăng cathelicidin là nguyên nhân gây ra bệnh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa