SÓNG ÂM HỖ TRỢ HÚT MỠ (PHẦN II)

Tác dụng phụ

Hầu hết các biến chứng đều bắt nguồn từ:

  • Kỹ thuật của bác sĩ điều trị do thiếu kinh nghiệm về phương pháp vận hành và lựa chọn mức năng lượng thiết bị sóng âm, tương tác của mô với sóng âm, điểm dừng điều trị, phân bố năng lượng sóng âm trong mô.
  • Vấn đề lỗi thiết bị, dẫn đến giải phóng năng lượng quá cao hoặc quá thấp.

Biến chứng được quan tâm và thường xảy ra nhiều nhất là tình trạng cháy da. Biến chứng thường do lỗi kỹ thuật của bác sĩ, lỗi thiết bị ít gặp hơn.

Cháy ở bị trí rạch da

Thiết bị đầu dò sẽ tạo ra nhiệt độ chuyển hóa từ năng lượng sóng âm, được tiếp xúc với da thông qua quá trình chà xát. Yếu tố tác động cặp của thao tác đè (tạo áp lực) và chà xát đầu dò quanh vị trí mổ. Vị trí vết rạch da chính là điểm tựa cho đầu dò trong toàn quá trình điều trị, sóng âm sẽ tạo ra nhiệt độ ở vùng da này cao hơn so với những vùng da khác và trong thời gian tiếp xúc lâu hơn. Ngoài ra, việc lựa chọn đầu dò có chiều dài quá ngắn khiến bác sĩ phải dùng lực ép để đầu dò có thể tiếp xúc với mô mỡ ở vị trí xa hơn khiến vị trị vết mổ càng phải chịu một áp lực lớn, nguy cơ cháy da tại vị trí ấy khá cao.

Cháy da xung quanh vết rạch

Trong quá trình điều trị, thiết bị đầu dò có thể chạm phải vùng da xung quanh vết rạch da, sự ma sát để lại những vết cháy da như hình vĩ nướng. Vị trí thường xảy ra biến chứng này là vùng rốn và bụng dưới. Biến chứng này hoàn toàn có thể được ngăn ngừa 100% nhờ vào những dụng cụ bảo vệ như khăn lót hoặc đơn giản chỉ với thao tác đặt đầu dò đúng kỹ thuật, không chạm hoặc đè lâu vào vùng da bệnh nhân. (lưu ý: thông thường một lớp vải lớp không đủ làm dịu nhiệt, kỹ thuật viên cần chuẩn bị cho bệnh nhân ít nhất 2 lớn khăng lót)

End-hit

End-hit chỉ thao tác đầu dò siêu âm chọc thẳng vào vùng da trung bì, thay vì là mô mỡ. End-hit thường xảy ra khi đầu dò xâm nhập vào vùng mô mỡ mới mà tại đó cấu trúc giải phẩu vùng da lõm vào trong hơn so với vùng da trước đó. Biến chứng này hoàn toàn có thể khắc phục được nếu bác sĩ chú ý điều chỉnh hướng đầu dò khi chuẩn bị điều trị vùng mô có cấu trúc lõm hơn.

Biên độ sóng âm quá cao

Khi biên độ sóng âm gia tăng, khả năng sinh nhiệt của đầu dò càng cao. Vì vậy, biên độ sóng cần được điều chỉnh ở mức năng lượng thấp sao cho quá trình di chuyển đầu dò dễ dàng, êm dịu, không có cảm giác lực cản mô mạnh. Hiện tượng này xảy ra do việc lựa chọn đầu dò không phù hợp. Vùng mô có nhiều cấu trúc liên kết cần sử dụng đầu dò có đường kính nhỏ, thao tác nhẹ nhàng nhất có thể. Vùng mô mềm có thể sử dụng đầu dò có kích thước to hơn.

Biến chứng liên quan đến lượng dịch rút mỡ.

Phương pháp siêu âm hỗ trợ đòi hỏi lượng dịch rút mỡ nhiều hơn so với phương pháp hút mỡ truyền thống. Dịch này có chức năng bảo vệ mô xung quanh trước hiện tượng giải phóng nhiệt lượng quá mức và hỗ trợ quá trình nhũ hóa chất béo được giải phóng ra, đảm bảo sự phân bố đồng đều lượng epinephrine và thuốc co mạch. Nếu lượng dịch quá ít, bệnh nhân sẽ gặp phải triệu chứng phù, nóng rát, và tăng cảm giác đau. Lượng dịch sử dụng thường theo tỷ lệ 1:1 (dịch hỗ trợ/(mỡ cần loại bỏ)). Đôi khi, bác sĩ có thể lựa chọn tỷ lệ 1.5:1 hoặc 2:1.

Biến chứng có liên quan đến lượng mỡ hút ra

Khi mô mỡ đã được nhũ hóa, chúng không cần một lực hút quá mạnh để được loại ra khỏi cơ thể. Hệ thống ống thông hiện đại giúp loại bỏ lượng mỡ đã nhũ hóa nhẹ nhàng. Khi lượng dịch đã được rút khỏi hoàn toàn, một liệu trình hút mỡ truyền thống bổ sung giúp đem lại hiệu quả tạo đường nét cho cơ thể khá vượt trội.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa