TÌM HIỂU VỀ KỸ THUẬT SIÊU MÀI MÒN DA

Ngày nay, có nhiều kỹ thuật tái tạo để cải thiện bề mặt da bằng cách phục hồi chất lượng da, xóa mờ các đốm tuổi, đường nhăn và vết sẹo. Những kỹ thuật này bao gồm: mài da truyền thống, thay da hóa học, laser tái tạo bề mặt và siêu mài mòn da. Tất cả các phương pháp trên đều có tác dụng tái tạo bề mặt da hoặc bóc tách da ở những độ sâu khác nhau, cũng như thúc đẩy việc chữa lành da.

Hầu hết các kỹ thuật tái tạo bề mặt da đều cho thấy hiệu quả trên lâm sàng, nhưng chúng cũng ẩn chứa nhiều biến chứng nghiêm trọng như thay đổi sắc tố và sẹo. Lợi ích của kỹ thuật siêu mài mòn da là không đau và không cần phải gây tê, tương đối đơn giản và thực hiện nhanh chóng, có thể lặp lại trong khoảng thời gian ngắn mà không ảnh hưởng đến cuộc sống của bệnh nhân. Kỹ thuật này bóc tách bề mặt da giới hạn ở lớp biểu bì, nên chủ yếu có hiệu quả trong phục hồi đường nhăn và các vết sẹo trên bề mặt.

Thủ thuật này hạn chế do hiệu quả giới hạn ở bề mặt và cần lặp lại nhiều lần để đạt được kết quả như mong muốn, nó không có hiệu quả cho các nếp nhăn sâu hoặc vết sẹo vượt quá lớp biểu bì.

Giải phẫu học của da liên quan đến kỹ thuật siêu mài mòn

Da được chia thành 2 lớp chức năng: lớp biểu bì và lớp trung bì.

Biểu bì

Nhìn chung, biểu bì tự thay thế mỗi 12-14 ngày. Lớp biểu bì bao gồm biểu mô và có thể chia thành 5 lớp:

  • Lớp sừng
  • Lớp sáng
  • Lớp hạt
  • Lớp gai
  • Lớp đáy.

Hầu hết lớp bề mặt là lớp sừng, gồm nhiều tế bào keratin liên tục chết đi và tái tạo. Đây là lớp cung cấp hàng rào bảo vệ da và là mục tiêu của quá trình tẩy da chết cơ học.

Lớp sáng được tìm thấy chủ yếu ở lòng bàn tay và lòng bàn chân, chứa một lớp dày đặc các sợi keratin hỗ trợ cho cấu trúc da. Lớp hạt chứa các hạt giàu chất béo tạo ra một hàng rào da không thấm nước. Lớp gai là lớp dày nhất và chứa nhiều tế bào giàu cytokeratin. Tế bào Langerhans, tế bào đuôi gai và các tế bào miễn dịch khác cũng nằm trong lớp này.

Lớp đáy chứa một đến ba lớp tế bào hình khối hoặc hình cột có tác dụng kích thích và sản sinh ra các lớp khác trong biểu bì. Tế bào sinh sắc tố và tế bào Merkel cũng được tìm thấy trong lớp này.

Trung bì

Lớp trung bì hình thành từ 2 lớp: trung bì nhú và trung bì lưới, bao gồm các mô liên kết. Lớp nhú mềm mỏng nằm dưới lớp đáy của biểu bì và chứa mạng lưới mao mạch cũng như các đầu mút thần kinh cảm giác. Lớp lưới dày hơn bao gồm collagen chịu trách nhiệm cho độ dẻo dai của da. Lớp này cũng là lớp nền cho nang lông, tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn cũng như các đám rối ở da.

Collagen là thành phần cấu tạo chính của lớp trung bì. Collagen loại I hình thành 80% collagen ở da và tạo nên độ dẻo dai. Collagen loại III bao gồm 15% collagen da. Chúng được tìm thấy trong toàn bộ trung bì và chủ yếu giúp neo giữ lớp biểu bì vào lớp trung bì. Sợi elastin chiếm khoảng 3% của trung bì, giúp cung cấp độ đàn hồi cho da.

Bên dưới trung bì là lớp mỡ dưới da, cung cấp máu từ động mạch và tĩnh mạch cho da.

Chỉ định

Kỹ thuật siêu mài mòn có hiệu quả nhất đối với các vấn đề ở bề mặt da, bao gồm: lão hóa quang hóa nhẹ, các đường nhăn, vết sẹo trên bề mặt và cũng làm giảm kích thước lỗ chân lông.

Xác định loại da của bệnh nhân khi phản ứng với ánh nắng mặt trời là cần thiết để xác định nguy cơ thay đổi sắc tố khi thực hiện kỹ thuật này (tham khảo phân loại da của Fitzpatrick).

Chống chỉ định

Chống chỉ định bao gồm việc sử dụng isotretinoin (trong vòng 6 tháng) do khả năng gây phì đại sẹo. Phẫu thuật vùng mặt trong vòng 2 tháng, liệu pháp xạ trị ở đầu hoặc tiền sử phì đại sẹo ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể.

Bất kỳ loại nhiễm trùng hay nhiễm vi rút nào ảnh hưởng đến da, ví dụ như mụn chốc, mụn cóc, mụn rộp,…đều là chống chỉ định tuyệt đối và phải được kiểm soát trước khi áp dụng kỹ thuật siêu mài mòn da, do nguy cơ lây lan từ vùng da bệnh sang vùng da khác.

Chống chỉ định tương đối bao gồm: rosacea và chứng giãn mao mạch do chúng có thể trầm trọng hơn khi áp dụng thủ thuật này.

 Kỹ thuật siêu mài mòn da tương đối ổn định, chỉ gây thương tổn nhẹ ở bề mặt da, đây là một trong những ưu điểm chính của phương pháp này. Trong tương lai, kỹ thuật này còn có thể đóng vai trò quan trọng để tăng cường độ thẩm thấu qua da của các phân tử nhỏ, insulin, vaccin,…

Thiết bị và kỹ thuật

Kỹ thuật siêu mài mòn da có thể được thực hiện bởi các bác sĩ, y tá hoặc chuyên viên thẩm mỹ. Vị trí điều trị phổ biến nhất là vùng mặt, nhưng nó cũng sử dụng hiệu quả trên vùng cổ, tay và ngực. Độ sâu của việc điều trị phụ thuộc vào hình dạng và kích thước các hạt kim cương gắn trên đầu ống, lực hút chân không, tốc độ máy di chuyển trên da và số lần máy đi qua vùng điều trị. Mài mòn sâu hơn có thể đạt được khi di chuyển máy chậm hơn và nhiều lần hơn, cho phép tiếp xúc với da lâu hơn.

Áp lực của thiết bị và mức chân không có thể được xác định bằng cách kiểm tra trên vùng da khác, nó cũng có thể được điều chỉnh năng lượng phụ thuộc vào sức chịu đựng của bệnh nhân. Khi kết thúc điều trị, toàn bộ dụng cụ phải được tiệt trùng để ngăn ngừa nhiễm trùng lây lan cho bệnh nhân kế tiếp.

Đối tượng bệnh nhân

Kỹ thuật siêu mài mòn da có hiệu quả nhất đối với các tình trạng da bề mặt như: lão hóa quang hóa sớm, các đường nhăn và vết sẹo bề mặt. Nó ít nguy cơ thay đổi sắc tố hoặc để lại sẹo hơn các kỹ thuật mài mòn da, thay da hóa học và laser tái tạo bề mặt.

Ngay cả những bệnh nhân thường có nguy cơ gặp biến chứng sắc tố thuộc kiểu da Fitzpatrick IV-VI vẫn có thể áp dụng kỹ thuật siêu mài mòn da với độ an toàn tương đối. Cần cẩn thận để tránh gây tổn thương sâu hơn ở những bệnh nhân này bằng cách không sử dụng áp lực quá lớn.

Kỹ thuật này cũng rất phù hợp cho vùng cổ, bởi vì vùng này có nguy cơ bị sẹo cao hơn khi áp dụng các phương pháp tái tạo bề mặt khác. Với kỹ thuật phù hợp và cẩn thận, siêu mài mòn da có thể áp dụng cho vùng cổ với độ an toàn tương đối. Nhìn chung, kỹ thuật siêu mài mòn ít khả năng rủi ro và phục hồi nhanh chóng hơn. Lựa chọn bệnh nhân là điều quan trọng để đảm bảo kết quả điều trị tối ưu, cần cân bằng giữa tình trạng da hiện tại và kết quả điều trị mong đợi của bệnh nhân.

Liệu pháp y tế kết hợp

Kết quả đạt được có thể tăng khi kết hợp với các liệu pháp điều trị da tại chỗ. Các chất bổ trợ bao gồm: tretinoin, alpha-hydroxyl acid, acid retinoic và vitamin C dùng tại chỗ. Ở những bệnh nhân được điều trị tăng sắc tố, rất tốt khi áp dụng hydroquinon giữa các lần điều trị, cùng với sử dụng kem chống nắng và kem dưỡng ẩm. Lợi ích lâu dài bao gồm giảm hư tổn da do ánh nắng mặt trời, lão hóa quang hóa và cải thiện độ ẩm cho da.

Chuẩn bị bệnh nhân

Bệnh nhân cần được hướng dẫn chăm sóc da thích hợp trước khi áp dụng thủ thuật này. Họ nên tẩy lông hoặc triệt lông bằng laser 1 tuần trước và tránh tiếp xúc quá mức với ánh nắng mặt trời 2 tuần trước khi làm thủ thuật.

Khi làm thủ thuật, da cần được làm sạch lớp trang điểm và dầu nhờn. Việc sử dụng thuốc tê không bị cấm, nhưng thường không gây tê cục bộ hoặc gây tê tại chỗ. Không đeo kính giãn tròng và bảo vệ mắt để phòng ngừa thương tổn.

Chi tiết quá trình

Để đảm bảo tẩy da chết, đầu ống nên tiếp xúc trực tiếp với bề mặt da. Kỹ thuật viên dùng tay còn lại căng vùng da đang điều trị để tránh chảy máu.

Áp lực chân không được điều chỉnh bằng chân, cho phép kỹ thuật viên thay đổi áp lực phù hợp. Lần đầu tiên nên lướt đầu ống qua bề mặt và hút nhẹ nhàng. Lần thứ hai được thực hiện vuông góc với lần đầu. Tất cả các lần tiếp theo phải theo khuôn mẫu xen kẽ này. Điểm dừng mong đợi là sự đỏ da. Thông thường, hai lần đi qua là đủ điều trị trên khuôn mặt.

Đối với phần da dày hơn như ở trán, cằm và mũi, có thể được điều trị tích cực hơn bằng cách điều chỉnh tốc độ di chuyển hoặc số lần đi qua. Da mỏng hơn ở mí mắt và má nên được điều trị với áp suất nhỏ hơn. Khi điều trị vùng cổ, nên di chuyển ống theo chiều dọc thay vì tiếp cận vuông góc như ở vùng mặt.

Mặt nên được làm sạch các tinh thể kim cương sót lại giữa các lần di chuyển tay cầm. Các khu vực có sẹo mụn hoặc đốm tuổi nên được điều trị bổ sung bằng cách tăng số lần di chuyển. Các buổi điều trị thường kéo dài 30-40 phút đối với mặt và 20 phút cho vùng cổ.

Sau khi làm sạch da mặt, nên dùng kem dưỡng ẩm chứa hoạt chất chống nắng. Bệnh nhân nên tránh các chất keratolytic như retinoid, alpha-hydroxy acid và benzoyl peroxid trong vòng 3 ngày sau khi làm thủ thuật. Đỏ da thường biến mất sau vài giờ điều trị và không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của bệnh nhân.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sen Spa